Năm Giới

NĂM GIỚI
HT. Thích Thiện Hoa

 A. MỞ ĐỀ

Sau khi quy y
Tam Bảo
rồi, người Phật tửtại gia phải sống đúng theo quy luậtđức Phật đã
chế ra, để tiến bước trên đường Đạo. Quy luật ấy là Ngũ Giới. Người theo đạo
Nho
không thể theo Tam Cương mà bỏ Ngũ Thường, thì người đạo Phật cũng không
thể chỉ thọ Tam Quy mà không trì Ngũ Giới.

Người phát tâmquy y Tam Bảo là đã bước chân lên nấc thang giải thoát, nhưng nếu không giữ năm
giới
là chỉ mới bước một nấc đầu rồi dừng lại, không thể tiến đến giải thoát thật
sự được.

Năm giới này
không những đưa người mạnh tiến trên đường giải thoát, mà còn đem lại trật tự,
an vui, hòa bình cho gia đình, quốc gia, xã hội nữa, Ngũ Giới chính là giềng mối
chắc thật tạo hạnh phúc cho cá nhân và đoàn thể, chính là ông thầy ngăn ngừachúng ta làm điều xằng bậy trong thời mạt pháp. Vì thế, đức PhậtThích Ca đã có
lời di chúc khẩn thiết sau đây trước khi Ngài nhập Niết Bàn

“Sau khi
ta diệt độ, các người tu hành phải tôn kínhgiới luật làm thầy; dầu cho ta còn
tại thế để dạy dỗ các người mấy ngàn đời đi nữa, ta cũng không thêm điều nào
ngoài giới luật”.

Giới luật Phật
chế ra thì rất nhiều, vì cần phảiáp dụng cho nhiều hạng người tu hành: Tỳ
Kheo
, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni. Riêng đối với hàng Phật tửtại gia, thì chỉ
năm giới mà thôi. Nhưng nếu giữ được năm giới ấy thì lợi ích cho mình, cho
người không xiết kể.

B. CHÁNH ĐỀ

I. ĐỊNH NGHĨA

Ngũ Giới là năm
điều ngăn cấm mà Phật đã chế ra, để ngăn những tưởng niệm ác, nói năng chẳng
lành, hành động bất chính. Năm điều răn ấy là: Không được giết hại, không được
trộm cướp, không được tà dâm, không được nói dối, không được uống rượu. Năm
điều *y cứ trên tâm từ bi, bình đẳng trên phương diện dứt trừ tội lỗicá nhân
và đem lại trật tự, an vui cho xã hộithành lập. Đức Phật không bắt buộc
chúng ta phải triệt đểtuân theo và cũng không hăm dọa nếu chúng ta không tuân
theo
thì phải bị Ngài trừng phạt. Sự giữ hay không giữ giớihoàn toàn do
chúng ta tự liệu lấy. Đạo Phật khác với các tôn giáo khác chính là ở điểm đức
Phật
không phải là một quan toà tối cao giữ quyền thưởng phạt. Một ý nghĩ, một
lời nói, một hành động tốt hay xấu chính đã mang theo nó một cái mầm thưởng
phạt rồi. Đức Phật chỉ là một vị dẫn đường rất từ bi và rất sáng suốt. Ngài chỉ
cho chúng tacon đường nào là con đường sáng và con đường nào là con đường nguy
hiểm không nên đi.

Nhưng nếu chúng
ta
không theo con đường sáng mà lại muốn đi vàocon đường nguy hiểm, thì tất
nhiên chúng ta sẽ gặp tai họatự nhiên, chứ Phật không tạo ra tai họa để trừng
phạt
chúng ta. Tòa án chính là luật Nhân Quả. Ta làm ác thì ta bị quả xấu; ta
làm thiện thì ta được quả tốt. Năm giới chính là năm thành trì ngăn chặn cho ta
đừng đi lạc vào đường ác, là năm hàng rào ngăn chặn cho ta khỏi rơi xuống vực
sâu, trong khi ta đi con đườnggiải thoát.

II. NĂM GIỚI

1. Không được giết hại

Điều răn cấm
thứ nhất mà Phật khuyên chúng ta là không được giết sanh mạng, từ loài ngườicho đến các loài vật. Sanh mạng có một giá trịquý báu, nhất là sanh mạng
người; giết hại sanh mạng kia để tô bồi sanh mạng này là một điều ác, không hợp
đạo.

Phật Giáocấm sát sanh bởi nhiều lý do

a) Tôn trọng
sự công bằng.
Chúng ta coi sanh mạng mình là quý, là của báutuyệt đối. Nếu ai
mưu hại, là mình chống trả triệt đểbảo vệ sanh mạng. Mình đã biết quý trọngthân
mạng
mình, tại sao lại muốn chà đạp sanh mạng người? Suy rộng ra, các loài vật
cũng biết quý trọng mạng chúng. Như khi một con bò hay con heo sắp bị đập đầu,
thọc huyết, ta thấy sự phản kháng mãnh liệt, sự đau thương cùng cực của chúng,
bằng những tiếng kêu gào, những cái giẫy giụa thoát chết ! Theo lẽ công bình,
điều ta không muốn ai làm cho ta, thì cũng đừng làm cho người khác hay loài
khác. Phật dạy: “Ai ai cũng sợ gươm đao, ai ai cũng sợ sự chết. Vậy nên
lấy lòng mình suy lòng người, chớ giết, chớ bảo giết !”.

b) Tôn trọngPhật tánhbình đẳng. Chúng sanhmỗi loài tùy thân hình khác nhau, mà vẫn đồng
một Phật tánh. Phật tánh đã bình đẳng thì không thể viện một lý do gì để nói
rằng Phật tánh ở người có giá trị hơn ở vật, ở giai cấp này, màu da này có giá
trị
hơn ở giai cấp kia, màu da kia. Sát hại một sanh vật là sát hạiPhật tánh.

c) Nuôi
dưỡng
lòng từ bi
. Lòng từ bi của đức Phật xem mọi loài như con, nên Ngài không
đồng ý cho Đệ tử Ngài sát hại sanh vật, bất cứ trong trường hợp nào. Bởi vì đem
tâm giết hại sanh mạng là lòng độc ác đã cực thịnh, tâm từ bi bị bóp chết. Nhẫn
tâm
vô cớ giết một con vật, tính bạo ác không kém giết một con người. Nhẫn tâm
làm cho kẻ khác hay vật khác phải giẫy giụa, rên siết, quằn quại trong máu đào,
trong lệ nóng trước khi trút hơi thởcuối cùng, là tự giết lòng từ bi của mình,
là bóp chết cái mầm thương yêu rất quý báu trong tâm hồnchúng ta. Như thế, khó
tu hành để thành chánh quả được. Đức Khổng tử có dạy: “Văn kỳ thanh bất
nhẫn kiến kỳ thực, kiến kỳ sanh bất nhẫn kiến kỳ tử”. (Nghe tiếng kêu la
của con vật, không nỡ ăn thịt nó; thấy nó sống, không đành thấy nó chết). Như
vậy, người có tâm từ bi hay lòng nhân đều không nỡ sát hại người hay vật.

d) Tránh
nhân quả báo ứng oán thù
. Khi ta giết một người hay một con vật thì sự oán hận của
họ tràn trề khó dập tắt được. Họ vì cô thế, vì yếu sức nên bị ta giết hại.
Trong khi ấy, họ ôm lòng căm hận, chờ gặp dịpbáo thù lại. Cứ thế, mỗi ngày ta
đều gieo căm hờn cho người và vật, tích lũy lâu ngày, khối oan gia ấy to hơn
sức ta, chừng ta sẽ bị nó sát hại lại. Càng tạo nghiệp sát, càng lao mình vào
vòng đau khổ. Phật dạy: “Người thường sanh tâm sát hại, càng tăng trưởng
nghiệp
khổ, mãi xoay vần trong sanh tử, không có ngày ra khỏi” (Kinh Lăng
Già
).

Lợi ích của sự không giết hại

Vì những lý do
trên, đức Phật cấm Phật tử giết hại. Không giết hại, sẽ có những điều lợi sau
đây: 

a) Về phương
diện
cá nhân
. Một người không tàn nhẫn sát nhân, hại vật, không độc ác làm đổ
máu, không lóc da, xẻ thịt, chặt đầu, thắt cổ, thì trong lòng không bức rứt,
hối hận, thân tâm được nhẹ nhàng, thư thới, giấc ngủ được an lành, nét mặt được
hiền hòa, trong sáng.

b) Về phương
diện
xã hội
. Nếu tất cả nhân loại trên thế giới này đều giữ đúng giới thứ
nhất của Phật dạy đây, thì chiến tranh sẽ không có, mà các nghiệp sanh tử luân
hồi
cũng được giải thoát. Cho nên Tổ xưa có dạy: 

Nhứt thiết chúng sanh
sát nghiệp,

Thập phương hà xứ động
đao binh,

Gia gia, hộ hộ đồng tu
thiện
,

Thiên ha*à sầu bất thái
bình
.

Nghĩa
là: 

Hết thảy chúng sanh
không nghiệp giết,

Mười phương nào có nổi
đao binh,

Mỗi nhà, mỗi chốn đều tu
thiện
,

Lo gì thiên hạ chẳng
thái bình.

Hạn chế: Vẫn biết giết hại là tạo nhân khổ, nhưng người tại gia còn
ăn mặn, còn làm công kia việc nọ, thì tránh sao khỏi phạm giới sát. Ở đây không
bắt buộc chúng ta phải giữ triệt để như thế, chỉ cần giữ phần quan trọng là
không giết người, và các con vật lớn như: trâu, bò, ngựa, chó, heo…

Còn nhiều con
vật nhỏ, nếu tránh giết được bao nhiêu thì quý bấy nhiêu. Chúng ta nên đi từ từ
thì chắc chắn hơn. Nhất là không nên giết hại sinh vật một cách vô lý, giết để thỏa
lòng
thích giết.

Trong khi giữ
giới
sát, chúng ta nên đề phòng hai điều sau: 

a) Không nên để
cho ác ýsanh khởi. Giết một con vật lớn mà vì vô ý hay vì tự vệ, thì cái quả
của nó còn nhẹ hơn là giết một con chuồn chuồn với cái ác ý muốn giết cho vui tay.

b) Nên tránh sự
huân tập trong hoàn cảnh giết hại: Những đứa trẻ bé lên 3, lên 5 ra sân gặp
chuồn chuồn, bươm bướm chụp bắt rồi ngắt cánh, rứt đầu, nếu cha mẹ thấy mà không
la rầy; đến 12, 13 tuổi, chúng sắm ná, giàn thun bắt chim, đến 20, 25 tuổi, chúng
đâm họng heo, giết chó, vẫn không bị ngăn cấm thì sau này, quen với tánh hung
bạo, trong cơn giận dữ, chúng có thể giết người không gớm tay. Vậy không những
chúng ta không nên để tự do cho con cái quen với sự giết hại sinh vật, mà cũng
không nên cho chúng mục kích những cảnh chém giết ở các rạp chiếu bóng hay ở
giữa đời.

2. Không được trộm cướp

Ai cũng biết
trộm cướp là lấy những vật thuộc quyền sở hữu của người, mà không có sự ưng
thuận
, hay cưỡng ép người ta ưng thuận bằng võ lực hay quyền hành. Những vật quý
giá như nhà cửa, ruộng vườn, tiền bạc, ngọc ngà…cho đến vật hèn mọn như lá
trầu, trái ớt v.v…người ta không cho mà mình cố lấy đều là trộm cướp.

Trộm cướp có
nhiều hình thức: Ỷ mạnh bè đảng giựt ngang của người là ăn cướp; cậy thế
quyền
làm tiền kẻ yếu là kẻ ăn cướp; bắt chẹt người ta trong lúc túng thiếu để
cho vay nặng lời, cầm bán với giá rẻ mạt là ăn cướp; tích trữ đầu cơ để bán giá
chợ đen là ăn cướp. Dùng mưu mẹo rình rập, lén lút lấy của người là ăn trộm; cân
non, đong thiếu, trốn xâu, lậu thuế, mượn của người ta mà không tìm cách trả
lại cũng là ăn trộm. Có thể nói tóm một câu là: bất cứ hình thức nào, do lòng
gian tham lấy của người bất chính đều là trộm cướp cả.

Nếu vì nghèo
nàn
túng thiếu, vợ ốm con đau, thiếu gạo thiếu thuốc, nên phải buộc lòng gian
xảo
, thì tội còn được châm chế; chứ đã giàu có, ăn sung mặc sướng, lên xe xuống
ngựa
mà còn lường gạt người lấy của, cướp công, để sống một cách vương giả trên
mồ hôi nước mắt của kẻ nghèo đói, thì tội ác thật nặng nề!

lý do gì Phật cấm trộm cướp?

Phật cấm trộm
cướp vì những lý do sau đây: 

a) Tôn trọng
sự công bằng:
Chúng ta không muốn ai lấy của mình, tại sao mình lại chăm chăm
muốn đoạt của người? Quyền sở hữucá nhân của ta, ta biết tôn trọng, thì tại sao
ta lại chà đạp lên quyền sở hữu của người? Làm như thế là trái lẽ công bằng.
Một xã hội mà thiếu công bằng thì không thể tồn tạilâu dài được.

b) Tôn trọng
sự bình đẳng.
Mỗi người đều có Phật tánh như nhau, tại sao ta lại muốn làm khổ
người khác để ta được sung sướng? Tại sao ta lại muốn hưởng những đặc ân bất
chính trong khi ta cũng chỉ là một con người như bao nhiêu con người khác?

c) Nuôi
dưỡng
lòng từ bi
. Một khi vô ý đánh mất một vật gì hay một số tiền, ta dàu dàu
buồn khổ, ăn không ngon, ngủ không yên, tại sao ta lại nỡ tâm lấy của người để cho
người phải khóc than, đau khổ vì ta? Người ta thường nói: “Tiền tài là
huyết mạch”. Như vậy, kẻ cướp đoạt của người tức là cướp đoạt xương máu
người, sát hại sinh mạng người vậy. Chỉ những người không có lòng thương người,
tán tận lương tâm mới làm những việc đen tối như vậy. Còn ta, đã là Phật tử,
đang cố gắngnuôi dưỡnglòng từ bi, ta không thể trộm cướp của ai được.

d) Tránh
nghiệp báo oán thù
. Trong xã hội có tổ chức, tôn trọng lẽ công bằng, thì tội trộm
cướp bao giờ cũng bị trừng trị. Ăn trộm thì bị đưa ra tòa án tiều hình, ăn cướp
thì đưa ra tòa án đại hình. Khi chưa bị bắt, kẻ trộm cướp phải tìm trăm phương
ngàn kế để trốn tránh, sống chui rúc trong bóng tối. Khi bị bắt, người trộm
cướp phải bị trói buộc, tra khảo, ngồi tù, nhốt khám. Phận mình đã cực thân khổ
trí
, lại cho gia đình mình, cha mẹ, vợ con cũng buồn rầu, xấu hổ, và mất hết cả
hy vọng ở tương lai.

Nhưng nếu luật
pháp
thế gian không trừng trị, thì người trộm cướp không thoát khỏiluật nhân
quả
nghiệp báo. Trộm cướp của người thì sẽ bị người trộm cướp lại, gây bao thù oán
khổ đau. Phật dạy: “Người tham luyếnsắc tài không chịu rời bỏ, cũng như
đứa bé luyến tiếc một chút mật dính trên lưỡi dao, thè lưỡi liếm, phải bị một
cái họa đứt lưỡi” (Kinh TứThập Nhị Chương). Chính thế, vì tham tiền của,
lắm người đã tự gieo mình vào khám đường, vào địa ngục. Chúng ta hãy lắng nghe
bài kệcảnh tỉnh của vua Trần Thái Tông

Tạc bích xuyên tường ý
bất hư,

Thiên ban bách kế, khổ
vinh cầu;

Kim sanh cầu đắc tha
nhơn vật,

Bất giácchung thiên thọ
mã ngưu.

Dịch:

Khoét vách xoi tường chí
những đâu,

Ngàn mưu trăm kế luống
tham cầu;

Của người dầu có đời nay
được,

Đời khác luôn luôn kiếp
ngựa trâu.


những lý do trên, nên đức Phật cấm Đệ tử trộm cướp.

Lợi ích của sự không trộm cướp

a) Về phương
diện
cá nhân
. Người không gian tham thì đời sốnghiện tại được an ổn, không bị
đòi hỏi, giam cầm, tù tội, đi đâu cũng được người khác tin cậy, giao phó cho
mình những địa vị quan trọng. Người không gian tham thì đời sau được hưởng
phước báu giàu sang, an vui, và con cháu nhiều đời cũng nhờ thừa hưởng âm chất
của ông bà, cha mẹ mà được vinh hiển.

b) Về phương
diện
đoàn thể
. Nếu một ngày nào trong xã hội không ai có tâm gian tham, trộm
cướp thì nhà không cần đóng cửa, của khỏi giữ gìn, vật đánh rơi không mất, thật
không
còn gì sung sướng hơn! Người ta khổ bởi không có của, nhưng kẻ có của
nhiều cũng vẫn khổ, vì phải lo giữ gìn. Người không trộm cướp tức là đã âm thầm
ban cho người khác sự an ổn rồi.

Nhà Nho có câu:
“Nhơn phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ”. Huống chúng ta
Phật tử lại đi trộm cướp hay sao?.

3. Không được tà dâm

Tà dâm tức là
muốn nói về sự dâm dụcphi lễphi pháp. Luật dạy người xuất gia ly tục phải dứt
hẳn dâm dục, còn người tại gia thì không đưọc tà dục. Khi vợ chồng có cưới hỏi
đủ lễ gọi là chánh; ngoài ra, lén lút lang chạ làm việc phi pháp gọi là tà.
Nhưng nếu vợ chồng chánh thức đi nữa, mà ăn nằm không phải chỗ, gần gũi nhau
không chừng mực thì cũng thuộc về tà dâm cả. Đó là nói về mặt thô thiển. Nói
một cách vi tế hơn, thì phàm những sự phóng tâm đắm sắc, nghĩ ngợibất chánh,
chơi bời lả lơi, cũng thuộc về tà dâm cả.

Phật cấm tà dâm vì những lý do sau đây

a) Tôn trọng
sự công bình
. Mỗi người ai cũng muốn gia đình mình đầm ấm yên vui, vợ con mình
đoan chánh, thì sao lại đi phá hại gia cang, làm nhục nhã tông môn người, đưa
vợ con người vào con đườngdâm loạn.

b) Bảo vệhạnh phúcgia đình. Không gì đau khổ, đen tối hơn, khi một gia đình mà người chồng
hoặc vợ có dạ riêng tư, tà vạy. Hạnh phúc đâu còn, khi chồng vợ không tin nhau !
Khi một gia đình lâm vào cảnh ấy, thì con cái sẽ xấu hổ, bê tha, côi cút,
con
không đoái hoài đến, sự nghiệp tan tành, làng xóm chê bai, danh giá hoen ố.
Điều kiện thiết yếu để giữ vững hạnh phúcgia đình chính là lòng chung thủy của
hai vợ chồng. Người ta thường bảo: “Thuận vờ thuận chồng, tát bể đông cũng
cạn”. Vì sự tà tâm của một trong hai người bạn đường mà trong gia đình
thường xảy ra những sự ghen tương, cãi vã, đánh đập có khi đến gây án mạng. Có
khi, để trả thù, người ta thường thấy xảy ra cái cảnh “ông ăn chả, bà ăn
nem”. Một người chồng đã tâm dò ngó vợ con người, thì chính vợ con họ cũng
lăm le vạch rào sang nhà kẻ khác rồi. Họ phá hạnh phúcgia đình người, thì
chính hạnh phúc gia đình họ cũng đã tan rã trước.

Cho nên cấm
dâm
là một điều kiệncần thiết để xây dựnghạnh phúc cho gia đình mình và gia
đình
người.

c) Tránh oán
thù và quả báoxấu xa.
Phật dạy: “Người ôm lòng ái dục cũng như kẻ cầm đuốc đi
ngược gió, quyết bị nạn cháy tay” (Kinh TứThập Nhị Chương). Thật vậy, người
ta có tâm xấu xa đắm mê sắc dục, không sớm thì chầy quyết bị hại: nếu không tan
nhà mất nước, thì cũng gãy chân mất mạng bởi mũi súng, ngọn gươm. Xưa nay những
kết quả thảm khốcđen tối do sự đắm mê sắc dục gây ra không thiếu gì; chúng ta
chỉ cần dở những chồng sách lịch sử hay chồng báo hằng ngày, sẽ thấy nhan nhản
trong mỗi trang, mỗi đoạn.

Trong các sự
oán thù, không có sự oán thù nào mãnh liệt bằng sự oán thù do sự lừa dối phụ
rẫy về tình ái gây ra. Các cuộc án mạng xảy ra hằng ngày, phần lớn là kết quả của
tà dâm.

Lợi ích của sự không tà dâm

Vì thế nên sự
giữ giới cấm tà dâm sẽ có những lợi ích sau đây: 

a) Về phương
diện
cá nhân
. Kinh Thập Thiện nói: “Người thế gian không tà hạnh thì được
hưởng bốn điều lợi như sau: 

  • Sáu căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý) đều
    được vẹn toàn.
  • Trọn đời được người kính trọng.
  • Đoạn trừ hết cả phiền lụy khuấy nhiễu .
  • Cuộc tình duyên trọn đời không ai dám xâm
    phạm”.

b) Về phương diện đoàn thể. Trong xã hội mà ai cũng không tà hạnh, thì gia
đình
được yên vui hạnh phúc, những sự *thương luân bại lý sẽ tiêu tan, những
cảnh thù hiềm, chém giết không xảy ra nữa; con cái được mạnh khỏe, nâng niu,
hội
sẽ cường thịnh.

Nói tóm lại,
cõi Ta Bà ô trọc, đau khổ này sẽ biến thànhthế giớithanh tịnh, an vui.

4. Không được nói sai sự thật

Nói sai sự thật
có 4 cách: Nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác.

a) Nói dốihay nói láo, là nói không thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có; việc
phải
nói trái, việc trái nói phải; điều nghe nói không nghe, điều không nghe
nói nghe; hoặc giảtrước mặt khen dồi, sau lưng chê mạt; hay khi ưa thì dịu
ngọt thơm tho, khi ghét thì lại đắng cay chua chát. Tóm lại, ý nghĩalời nóiviệc làm trước sau mâu thuẫn, trên dưới khác nhau, trong ngoài bất nhứt, đều
thuộc về nói dối cả.

b) Nói thêu
dệt
, là
việc ít xích cho nhiều, làm cho người nghe nổi sân hận; là trau tria lời nói,
chuốt ngót giọng hay, lên hơi xuống giọng cho êm tai mát dạ để cám dỗ người nghe,
làm cho người say mê đắm nhiễm; cũng có khi là nói biếm, nói bâm, nói châm, nói
chích làm cho người nghe phải khổ sở. Tóm lại, bao nhiêu lời nói không đúng
nghĩa chân thật, thêm bớt, cho đếnvăn chươngphù phiếm, bóng bẩy làm cho kẻ
nghe phải loạn tâm, sanh phiền não, đều gọi là nói thêu dệt cả.

c) Nói lưỡi
hai chiều,
hay nôm na hơn, là nói “đòn xóc nhọn hai đầu”, nghĩa là
đến chỗ này thì về hùa với bên này để nói xấu bên kia, đến bên kia thì về蠨ùa với bên ấy để nói xấu bên này, làm cho bạn bè đang thân nhau
trở lại chống nhau, kẻ ân người nghĩa chống đối, oán thù nhau.

d) Nói lời
hung ác
,

là nói những tiếng thô tục, cộc cằn, chửi rủa, làm cho người nghe phải đau khổ,
buồn rầu, sợ hãi.

Vì sao Phật cấm nói sai sự thật?

Phật cấm nói
sai sự thật vì những lý do sau đây: 

a) Tôn trọngsự thật.
Đạo Phật là đạo như thật; người tu theo đạo Phật phải tôn trọngsự thật. Người
quen *cới dối trá, không thiết tìm sự thật thì khó có thể chứng quả được. Chúng
ta
đang sống trong vọng tưởng, công việc chính của người tu hànhcố gắng phá
tan vọng tưởng ấy để thấy được bản nguyện; nếu không làm được như thế mà trái
lại
còn chồng chất thêm cái vọng tưởng ấy với những sự dối trá lừa phỉnh nữa,
thì thật là vô cùng trái đạo.

b) Nuôi
dưỡng
lòng từ bi
. Cái động lực chính của sự dối trá là lòng ích kỷ, ác độc, muốn
hại người để thỏa lòngdục vọngđen tối của mình. Người bị lừa dối, phỉnh gạt
phải đau khổ vì mình, có khi phải mắc thù vương oán, có khi phải tan gia bại
sản. Người tu hành mà làm như thế là đã tán tận lương tâm, đã bóp chết tình
thương
trong lòng họ rồi. Một khi lòng từ bi không có nữa, nghĩa là cái động
lực
chính đã mất, thì sự tu hành chỉ còn là giả dối, lừa bịp người, và tất
nhiên không bao giờ có kết quả tốt.

c) Bảo tồn
sự trung tín trong xã hội
. Trong một gia đình, một đoàn thể, một xã hội mà không ai
tin ai, thì mọi công cuộc từ nhỏ đến lớn đều thất bại. Trong đạo Nho, một trong
5 đức tánh căn bảnlòng tin. “Nhơn vô tín bất lập”, đó là lời dạy
của Khổng Tử. Hạnh phúcgia đìnhxã hội không thể có được trong sự dối tránghi ngờ, đố kỵ.

d) Tránh
nghiệp báo khổ đau
. Lời nói tuy không phải là lưỡi kiếm, nhưng nó nguy hiểm hơn lưỡi
kiếm, vì nó có hai mũi nhọn, một mũi đâm vào người khác và một mũi đâm vào chính
người xử dụng nó. Ai ai chắc cũng chưa quên câu truyện thằng bé chăn cừu muốn
đánh lừa hàng xóm, bằng cách la “Lửa! Lửa!”, nhưng nó chỉ phỉnh người
một lần; lần sau, nhà nó cháy thật, mặc dù nó kêu lathảm thiết cũng không ai
thèm đến chữa nữa. Đấy, người dối trá chỉ gây tai họa cho mình. Do đó, Phật
dạy: “Phù sĩ xử thế phủ tại khẩu trung, sở dĩ trảm thân do kỳ ác
ngôn”, nghĩa là: Phàm kẻ ở đời, lưỡi búa bén nằm sẵn trong miệng, sở dĩ trảm
chém mình là do lời nói ác. Đã đành nói ly gián, nói xuyên tạc là để hại người,
nhưng khi đã làm hại người thì thế nào người cũng hại lại mình. “Ác lai ác
báo” là thế. Để tránh sự thù hằn, tránh nghiệp dữ, chúng ta không nên dối
trá
, điêu ngoa.

Lợi ích của sự không dối trá

a) Về phương
diện
cá nhân
. Được người trọng nể, tin cậy, không ai oán hận thù hiềm; đi đâu
cũng được người chung quanh dành cho một địa vịthân tín, niềm nở đón tiếp. Trong
nghề nghiệp làm ăn, người chân thật được nhiều thân chủ, và được giao phó cho
nhiều trọng tráchquý báu.

b) Về phương
diện
đoàn thể
. Gia đìnhxã hội được đoàn thể trong sự tin cậy. Mọi công cuộc
chung được xúc tiến có kết quả tốt. Đồng bào thương yêu, thông cảm nhau hơn.

Hạn chế: Nói dối là một tai họa
lớn lao cho mình và xã hội. Tuy nhiên, cũng có vài trường hợp nên nói dối. Đó
là khi nào vì lòng từ bi mà phải nói dối để cứu người hay vật. Nói dốiphạm tội
là trong trường hợp do lòng tham, sân làm động cơ thúc đẩy. Ngược lại, nếu do
lòng từ bi thúc đẩy mà phải nói dối, thì không phạm tội.

5. Không được uống rượu

Tất cả những
thứ có chất men làm say người, hay chất độc hại người đều không được uống.
Chính mình không uống đã đành, mà cũng không được ép nài người khác uống. Ép
nài
, khuyến khích người khác uống, tội lại nặng hơn cả chính mình uống nữa. Lúc
lâm bịnh nặng, uống các thứ thuốc không lành, lương y bảo phải dùng rượu hòa
vào thuốc, thì tạm được dùng. Nhưng trước khi dùng phải bạch cho chúng Tăng
biết. Khi hết bịnh, không được tiếp tục uống thuốc có hòa rượu ấy nữa.

Vì những lý do gì Phật cấm uống rượu?

  • Phật cấm uống rượu vì những lý do sau đây: 

a) Bảo toàn hạt giốngtrí tuệ. Rượu còn nguy hiểm hơn thuốc độc. Một
chén thuốc độc ta uống vào chết ngay, nhưng chỉ chết một thân hiện tại, chứ
rượu uống vào làm mất giống trí tuệ, phải chết đi sống lạivô số kiếp. Vì thế,
để bảo toàn hạt giốngtrí tuệquý báu, Phật cấm uống rượu.

b) Ngăn ngừa
những nguyên nhân sanh ra tội lỗi
. Rượu chính nó không phải là một tội lỗi như
sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nhưng nó có thể làm nhân cho những tội lỗi kia
sanh ra. Khi đã uống rượu vào say sưa, thì tội nào cũng có thể phàm được. Dưới
đây là một câu chuyện để chứng minh điều đó: 

Một anh nông
phu kia đang cày ruộng giữa đồng, bổng thấy hiện rasừng sữngtrước mặt mình
một hung thần to lớn, kỳ dị, hăm giết anh. Anh kinh sợ, khóc lóc xin tha mạng.
Vị hung thần bảo: 

  • Nếu ngươi làm được trong ba việc này thì ta
    tha chết cho: hoặc là giết cha ngươi, hoặc là đánh mẹ ngươi hay uống hết lít
    rượu để trên bàn nhà ngươi.

Anh
nông phu suy nghĩ một hồi trả lời

  • Xin Ngài cho con được uống lít rượu.

Ác
thần
nghe xong, có vẻ hài lòng, rồi biến mất.

Trưa hôm ấy,
anh nông phu về nhà, thấy lít rượu mà ông thân mua để đãi khách, vì nhà sắp có
giỗ, anh ta vội vàng chụp lấy, nốc cạn một hơi. Cha anh thấy đứa con hỗn láo,
nắm gậy xông lại đánh mắng con. Ma men đã thấm, anh ta không còn biết phải
trái
, giựt gậy của cha, đánh ông một cây chết tốt ! Bà mẹ chạy đến ôm con la
làng. Anh ta chưa hả cơn giận, đánh mẹ túi bụi. Làng xóm chạy lại bắt anh dẫn
lên quan vì tội giết cha đánh mẹ. Tỉnh lại anh mới biết uống rượu là tội nặng
nhất trong 3 điều mà hung thần đã bắt anh làm.

Tóm lại, rượu
gây rất nhiều tội lỗi. Sau đây 10 tai hại của rượu mà trong Kinh đã nói
đến: 

  • Của cải rơi mất;
  • Tăng trưởng lòng giế鴠hại;
  • Trí tuệ kém dần;
  • Sự nghiệp chẳng thành;
  • Thân tâm nhiều khổ;
  • Thân hay tật bệnh;
  • Tâm sân hận bồng bột, ưa cãi lẫy;
  • Phước đức tiêu mòn;
  • Tuổi thọ giảm bớt;
  • Mạng chung đọa vào địa ngục.

Lợi ích của sự cấm rượu

a) Về phương
diện
cá nhân
. Người không uống rượu thì tránh được 10 điều hại vừa kể trên:
không mất tiền của, thân ít bệnh tật, không sinh lòng ác độc giết hại, bớt nóng
giận, trí tuệtăng trưởng, tuổi thọ càng cao v.v…

b) Về phương
diện
đoàn thể
. Gia đình được yên vui, con cái ít bệnh tật, xã hội được hòa mục,
nòi giống được hùng cường.

C. KẾT LUẬN

1. Phật tử không giữ giới không phải là Phật tử

Chúng ta đã
thấy công dụngthiết thựclợi ích của năm giới về phương diệncá nhân
đoàn thể. Nếu Tam Quy là nền tảng, thì Ngũ Giới là 5 nấc thang của người Phật
tử
tại gia để bước dần lên Thánh quả. Trong bước đầu, người Phật tửnếu có thểphát nguyện giữ cả năm giới thì càng tốt; nếu vì nhiều sự ràng buộc chưa thể
giữ được cả năm giới thì có thể giữ vài giới mà mình thấy có thể thực hành được
như: không uống rượu, không nói dối. Rồi với sự tinh tấnBồ Đề Tâm dõng
mãnh, ta tiếp tụcphát nguyện giữ thêm những giới khác như khôngtrộm cắp,
không tà dâm…Nhưng đã phát nguyệngiữ giới nào thì giữ cho trung kiên, đừng
có một bước tiến tới, hai bước thoái lui, dùng dằng như thế mãi thì không bao
giờ đi đến đâu cả.

Nếu người Phật
tử
mà không giữ được giới nào, thì sao gọi được là Phật tử? Người thường, không
theo Phật mà còn có thể giữ đúng tư cáchnhư không uống rượu, không nói dối,
không trộm cắp *thay, huống hồ là Phật tử? Ta đến với đạo Phật là vì muốn vượt
lên trên đời tầm thường của thế nhân. Nếu chúng ta vào đạo rồi mà vẫn tiếp tụccuộc
đời
thường của thế nhân, thì đó là chúng ta muốn làm hoen ố đạo, chứ không phải
là ngưỡng mộ đạo.

Cho nên, người
Phật tử phải cố gắnggiữ giới để cho xứng đáng với danh nghĩa của mình, để đem
hạnh phúc đến cho mình và chúng sanh.

2. Người không theo đạo Phật cũng nên giữ giới

Năm giới nói
trên không có gì là cao siêu, huyền bí. Đó là bài học công dân thông thường mà
bất cứ một xã hội nào, một quốc gia nào muốn phồn thịnh, hùng cường cũng không thể
bỏ sót được. Cho nên 5 điều luật ấy không phải chỉ để áp dụng riêng chi giới
Phật tử, mà còn chung cho tất cả những ai muốn sống một cuộc sống lành mạnh, an
vui, có lễ nghĩatiến bộ.

Một xã hội
mọi phần tử đều thực hiện được 5 giới cấm ấy, thì đó là một xã hộigương mẫu,
văn minh nhứt thế giới.

(Trích từ
Phật HọcPhổ Thông)