Nền Tảng Đạo Đức Phật Giáo Xây Dựng Xã Hội Chân Thiện Mỹ

NỀN TẢNG ĐẠO ĐỨCPHẬT GIÁO
XÂY DỰNGXÃ HỘICHÂN THIỆN MỸ

Thích Trí Giải

tuongducbonsutuongducbonsu

I. Giới thiệu:

Đức Phậtthị
hiện
ra đời không phải vì danh lợi, không phải ngồi trên ngai vàng của kinh
thành Kapilavatthu (Ca-Tỳ-La-Vệ) để cai trị thiên hạ. Mà vì mục đích cao cả làm
cho chúng sinhgiải thoátsinh tử luân hồi, trong Kinh Pháp Hoa nói: “Như Lai
xuất hiện nơi thế gian này với mục đích làm cho chúng sinhkhai thị ngộ nhậpPhật
tri kiến
.”

Vì vậytrong suốt 45 năm (theo Theravāda), hoặc 49 năm (theo Mahāyāna) “Đức Phật thuyếtpháp độ sinh để lại tam tạng Kinh điển (Tripiṭaka) được chia làm ba tạng: Sūtra piṭaka (Sanskrit; Pāli: Sutta
pitaka
)
Kinh tạng; Vinaya piṭaka (Sanskrit và Pāli) Luật tạng; Abhidharma
piṭaka
 (Sanskrit;
Pali: Abhidhamma piṭaka)
Luận tạng” [1]

Tam tạng Kinh điển nhằm giáo
dục
con ngườisửa đổi từ đức tính xấutrở thànhđạo đức tốt. Đạo đứcPhật giáo nhằm
thiết lập một xã hộichân thiện mỹ, từ một xã hộibạo động thành một xã hội hòa
bình, từ những tư tưởngtiêu cực, bi quan yểm thế trở vềlý tưởngtích cực, lạc
quan
năng độngtốt đẹp. Đạo đứcPhật giáo là một lối sốngthực hành mang lại
an lạc hạnh phúc cho con người trong cuộc sống hiện tạigiải thoát trong
tương lai chứ không phải niềm tin suông. Tam tạng Kinh điển của Phật giáo không
ngoài mục đích:

Tránh xa các việc ác,
Nên làm các việc
lành
,
Giữ tâm ý
trong sạch,
Đây là lời dạy
của chư Phật
[2]

Muốn cho xã hộihoạt độngtrật
tự
tốt đẹp bằng cách xây dựngđạo đứccon người trong tất cả đoàn thể của
hội
(như: cơ quan, trường học, doanh nghiệp, gia đình…) thì đòi hỏi mỗi
nhân
cần áp dụng theo luật pháp của Nhà nước và giới luật Phật chế, thực hànhđời
sống
tâm linh theo lời Phật dạy để diệt trừ tham-sân-si bằng ba phương pháp Giới-Định-Tuệ.

Giới diệt trừ tâm tham, Định
diệt trừ tâm sân, Tuệ diệt trừ tâm si để tam nghiệp (thân, khẩu, ý) hằng thanh
tịnh. Tu tậpnăm giới là để biểu lộlòng từ bi, tình thương đến tất cả chúng
sinh
, ngăn chặn trực tiếp đến sát hại sinh mạng, còn những giới khác ngăn chặn
gây mất hạnh phúc đến người khác và thúc liễm thân tâm được thanh tịnh niệm ác
khỏi phát sinh.

II. Định Nghĩa Giới (Pātimokka)

Giới gọi là pātimokka (Pāli); prātimokṣa (Sanskrit) Hán việt gọi Ba-la-đề-mộc-xoa 波 羅提木叉 nghĩa là biệt giải thoát, tùy thuận giải thoát, [3]

Giới còn có
nghĩa là những phẩm chất tốt đẹpđạo đức của con người, giới luật như khuôn
vàng thước ngọc để thẩm định, phân biệt hành động đúng sai, đặc điểm tốt xấu của
con người[4]

Giới còn gọi
đạo đứcbước đầu tiên trên con đường của sự thanh lọc tâm, giới là nền tảng
của tất cả những tư cáchđạo đứctốt đẹp, Giới dùng để ngăn chặn những việc xấu
xa
từ thân, khẩu ý. Vì vậy, Giới là nền tảng đời sốngđạo đức, giới là những điều
răn dạy để điều chỉnhđạo đứccon người nhằm mang lại hạnh phúc cho mình và tha
nhân
. [5]

Thế nào gọi
đạo đức, (giới hạnh) đó là những trạng thái bắt đầu của tâm sở (cetasikā) trong một con người phải lánh
xa
việc sát sinh, hoặc con người phải thực hành đầy đủ nhiệm vụ của mình [6]

Giới còn gọi
Śīla theo Sanskrit dictionary định
nghĩa từ Śīla theo thuật ngữPhật học
cách cư xửđạo đức và một trong sáu pháp Ba-la-mật, giới là những quy tắc
hay còn gọi năm giới (Pañcaśila) là nền tảng đạo đức trong Phật giáo[7]

III. Phân Loại giới

Giới luật được phân chia trong bảy chúng đệ tử của Đức Phật gồm hai
phần; chúng xuất giatại gia:

a) Giới xuất gia

Theo Luật-tứ-phần, Tỳ-kheo (Bhikkhus):
[8]

Theo Luật-tứ-phần, Tỳ-kheo-ni (Bhikkhunis)
[9]

Các loại giới

Tỳ-kheo

Chú thích n=number (số)

T=Taiśotripiṭakam

Tỳ-kheo-ni

Chú Thích n=
number (số)

T=Taiśotripiṭakam

Ba-la-di pārājka; 四波羅夷

4

T22n1428, tr.
567a16

 

8

T22n1431, tr. 1031b14

Tăng-tàn Sanghādisesa僧殘

13

T22n1428, tr. 581b06

17

T22n1431, tr. 1032a07

Bất-định Aniyatā 不定

2

T22n1428, tr. 600b08

 

 

Xả-đọa Nissaggiyā Pācittiya捨墮

30

T22n1428, tr. 601c06

 

30

T22n1431, tr. 1034c07

Ba-dật-đề Pācittiya單提

90

T22n1428, tr.634a08

178

T22n1431, tr. 1038c01

Ba-la-đề-đề-xá-ni pāṭidesanīyā 提舍

4

T22n1428, tr. 695c16

8

T22n1431, tr. 1038c04

Pháp-chúng-học Sekhiya百衆學

100

T22n1428, tr. 699c17

100

T22n1431, tr. 1039a04

Diệt-tránh Adhikaranaśamathā 滅諍

7

T22n1428, tr. 713c21

7

T22n1431, tr. 1040a29

Tổng công:

250

 

348

 

– Sa-di (Śrāmaṇeras) 10 giới
[10]

– Sa-di-ni (Sāmaṇerī)
10 giới [11]

Không sát sinh; không trộm cắp; không dâm dục; không nói dối; không uống rượu; không được
mang vòng hoa thơm hay dùng hương thơm xoa mình; không được ca, vũ, hòa tấu, biểu
diễn, hay đi xem nghe; không được ngồi giường cao và rộng lớn; không được ăn
phi thời; không được nắm giữ sanh tượng (vàng bạc) bảo vật.

– Thức-xoa-ma-na-ni: tiếng Phạn gọi śikṣamānās, (Pali: sikkhamānā; Hán: thức-xoa-ma-na 式叉摩那,
chánh học 正學) nghĩa là người nữ đang học tập các học xứ
của tỳ-kheo-ni.

– Sáu học pháp:Không sát sinh; không trộm cắp; không dâm dục; không nói dối; không uống rượu; không
ăn phi thời.[12]

Bốn học pháp đầu được phân biệt thành hai trường
hợp
khác nhau, trường hợp thứ nhất, trường hợpnghiêm trọng, tương đương với
bốn ba-la-di đầu của Tỳ-kheo-ni, nếu phạm phải bị diệt tẫn

Ngoài ra, nếu giết hại súc vật, ăn cắp dưới mức
tội ba-la-di, bốn ba-la-di cuối của Tỳ-kheo-ni, nói dối dưới mức tội ba-la- di,
uống rượu và ăn phi thời; nếu phạm các điều này mà bị phát hiện, hay tự mình
phát lồ trong ngày nào, thì ngay ngày đó phải thọ lại từ đầu, và lấy đây làm mốc
cho hai năm học giới, còn thời gian trước khi phạm hòan toàn xóa bỏ. Ngoài sáu
học pháp chính trên, còn có các học pháp phụ khác gọi là
mười tám tùy pháp[13] 

b) Giới tại gia

– Ưu-bà-tắc (Phật tử nam Upāsakas),
Ưu-bà-di (Phật tử nữ Upāsikās) [14]

Năm giới
dành cho Phật tử: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối,
không dùng các chất say.

Ngoài ra
còn có Đại thừa Bồ-tát-giới trong Kinh Phạm-võng:

Áp dụng
cho cả hai chúng xuất giatại gia

10 giới
trọng
[15]

Giới sát sinh, giới trộm cướp,
giới dâm dục, giới vọng ngữ, giới bán rượu giới nói lỗi tứ chúng, giới khen
mình chê người, giới xan tham, giới cố giận hờn, giới phỉ bángTam bảo,

48 giới khinh [16]

IV. Lợi ích của giới

Chúng ta
thấy rằng tùy theo cấp bậc của mỗi chúng khác nhau Phật chế giới theo mỗi mức độ
khác nhau. Nhưng “năm giới đều áp dụng cho tất cả bảy chúng, bởi vì năm giới rất
quan trọng là nền tảng đạo đức trong cuộc sống,” [17]

Vấn đề giết
hại sinh mạng là một hành động phi đạo đức, giới thứ nhất khôngchỉ quan trọng
cho mỗi cá nhâncon người mà nó còn mang lại cuộc sống hoà bình và sự tồn tạixã hội, giới khôngsát sinh còn thể hiện phẩm chất lòng từ bi của Phật giáo[18].

Mục đích Phật chế giới là để
ngăn chặn trực tiếp vấn đề giết hại sinh mạng, Nếu “Tỳ-kheo hoặc Tỳ-kheo-ni vi
phạm
Ba-la-di (pārājikā) trục xuất khỏi Tăng đoàn” [19]

Trong Kinh Thủ-lăng-nghiêm, Phật bảo A-Nan: “Lục đạo
chúng
sanh trong các thế giới, nếu khôngtâm sát hại thì không phải trôi theo sanh
tử
tương tục. Người tu Tam muội, cầu ra khỏi trần lao, nếu không dứt tâm sát sanh
thì trần lao khó ra khỏi. Dù có nhiều trí tuệthiền địnhhiện tiền,
nhưng tâm sátsanh không dứt, ắt phải lạc vào Ma đạo.” [20].

Hết thảy chúng sanh không
nghiệp giết,

Mười phương nào có nổi đao binh,

Mỗi nhà, mỗi chốn đều tu thiện,

Lo gì thiên hạ chẳng thái bình.

Trộm
cướp là hành động trái đạo đức, trộm lấy của người xuất pháttừ tâm tham, trộm
cướp cũng là động cơ dễ gây tội giết người, một khi bại lộ vì bảo vệ mạng sống
dễ ra tay giết người, hoặc khởi lòng tham giết người cướp của. Vì vậy Phật chế
giới
ngăn chận tâm tham tránh phạm giới sát.

Như trong
Kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: “Tâm trộm
không trừ thì trần lao không ra khỏi, dầu có trí tuệ, thiền định, hiện tiền tâm
trộm không dứt, quyết chắc phải đọa vào đường ác” nên Phật ngăn cấm. [21]

Một
người lánh xa việc trộm cướp là kết nối đời sốngan lạc và tạo hạnh phúc đối
những người chung quanh. Không trộm cướp mục đíchtôn trọng sự bình đẳng, nuôi
dưỡng
lòng từ bi, không bị sinh tử luân hồi:

“Tạc bích xuyên tường ý bất hư,
Thiên ban bách kế, khổ vinh cầu;
Kim
sanh cầu đắc tha nhơn vật,
Bất giácchung thiên thọ mã ngưu.

Dịch:

Khoét vách xoi tường chí những đâu,
Ngàn mưu trăm kế luống tham cầu;
Của người dầu có đời nay được,
Đời khác luôn luôn kiếp ngựa trâu” (Trần Thái Tông)

Phật chế cấm giới thứ ba,
hàng xuất gia không được dâm dục vì để bản thểtâm thanh tịnh, xa lìaái dục, Phật
chế giới cấm hàng phật tử không được tà dâm là ngăn chặn sự phá họai hạnh phúcgia
đình
người khác, và có những lợi ích sau:

Về
phương diệncá nhân, Kinh Thập Thiện nói: “Người thế gian không tà hạnh
thì được hưởng bốn điều lợi như sau: Sáu căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân,
ý) đều được vẹn toàn, trọn đời được người kính trọng, đoạn trừ hết cả phiền lụy
khuấy nhiễu, cuộc tình duyên trọn đời không ai
dám xâm phạm”.

Về
phương diện đoàn thể, trong xã hội mà ai cũng không tà hạnh, thì gia đình được
yên vui hạnh phúc, những sự thương luân bại lý sẽ tiêu tan, những cảnh thù
hiềm, chém giết không xảy ra nữa; con cái được mạnh khỏe, nâng niu, xã hội sẽ
cường thịnh. Phật
dạy cấm nói dối, cũng vì một lời nói, nếu lời nóichân thật (ái ngữ) mang lại hạnh
phúc
an lạc và thay đổi cuộc đời người khác, cũng một lời nói, nếu chúng tanói
dối
, nói ác khẩu, nói lưỡi hai chiều, nói thêu dệt (ít nói thêm nhiều) gây tổn
thương
, mang lại thị phitranh chấp, chia rẽ gây mất đoàn kết, và hạnh phúc người
khác…cũng một lời nói có thể dẫn đến giết người. Đức Phật dạy: “Phù sĩ xử thế phủ tại khẩu trung, sở dĩ trảm thân
do kỳ ác ngôn”, nghĩa là: Phàm kẻ ở đời, lưỡi búa bén nằm sẵn trong miệng,
sở dĩ chém mình là do lời nói ác” [22]

Vì thế trước khi nói phải đánh lưỡi bảy lần, trong năm giới thì giới uống
rượu rất nguy hại, trong Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt (Sigālaka Sutta
or Sigālovāda) của Trường Bộ Kinh (Dīgha-nikāya) nói rằng: “uống rượu có
sáu điều tác hại: tài sản bị tổn thất, đấu tranh (tranh cãi) tăng trưởng, dễ
gây bệnh tật, tổn thươngdanh dự, mất oai nghitiếp xúc của con người, trí lực
bị tổn hại”. [23]

Trong luật
Sa-di, Đức Phật có dạy
“Thà
uống nước đồng sôi, cẩn thận chớ phạm đến rượu” [24]

Nuớc đồng sôi tan rã thân, rượu chết mất thân huệ mạng, nên thà tan rã thân xác thịt, để còn giữ thân huệ mạng (tinh thần,
trí tuệ). Vì sao Phật ngăn cấm giới uống
rượu, bởi vì phạm giới uống rượu thì bốn trọng giới cũng phạm theo

Nhân quảnghiệp
báo
:

Trong Tăng-chi-bộ nói rằng: “khi con người tạo nghiệp
dẫn đến kết quả nghiệp trong mọi thời gian, quá khứ, hiện tạivị lai, trong
kiếp hiện tại nếu bất kỳ ai tạo nghiệp xấu ác như giết hại sinh mạng, gây tổn hại
đến đời sốngchúng sinh thì kết quả nghiệp tổn thọ (chết yểu), ăn cướp thì kết
quả nghiệp mất tài sản, tà dâm thì kết quả nghiệp mất hạnh phúc, thù hận gây
thương thích người khác dẫn đến kết quả nghiệp phá vỡ tình hữu nghị, tâm ích kỷ
thì dẫn đến kết quả nghiệp nghèo nàng, ghen tuông dẫn đến kết quả nghiệp thù hận,
kiêu căng sinh vào gia đìnhnghèo khổ,… ngược lại nếu tạo nghiệp thiện dẫn đến
tái sinh về cõi Trời” [25]Những giới còn lại nhằm ngăn ngừa các điều ác từ thân, khẩu và ý nghiệp không
cho phát sinh tội lỗi và cũng nhằm ngăn chặn sự phá hạihạnh phúc, quyền lợi của người
khác. Tu tậpgiới luật là để thanh lọc tâm được thanh tịnh làm thềm thang bước
lên
địa vịThánh quả, “Giới luật đóng vai trò rất quan trọng cho vấn đề phát
triển hòa bình và cân bằng trong xã hội, thực hànhnăm giới là để ngăn chặn những
hành động phi đạo đức, và mang lại phúc lợi cho mỗi cá nhân, và những người
khác trong xã hội” [26]

V. Nguyên nhân suy thoái đạo đức trong xã hội

Phật giáo
phân tích những vấn đềbạo động suy thoái đạo đức trong xã hội bắt nguồn từ bản
năng
tham ái (ái dục) của người là nguyên nhân làm mất cân bằng xã hội, tâm
tham đứng đầu trong ba căn bản phiền não tham (
rāga) sân (dveṣa) và si (moha), sinh ra sát hại
sinh mạng, trộm cướp, tà dâm, nói dối… [27]

Do vậy đức Phật dạy rằng: “Này
các Tỳ kheo, do dục vọng làm duyên, nên vua tranh chấp với vua, Sát đế lợitranh chấp với Sát đế lợi, Bà la môntranh chấp với Bà la môn, gia chủtranh chấp
với gia chủ, cha mẹ, anh em, bè bạn tranh chấp lẫn nhau. Khi chúng đã dấn thân
vào sự tranh chấp, chúng đánh nhau bằng tay, ném nhau bằng đá, đập nhau bằng gậy
và chém nhau bằng gươm. Do đó, chúng bị tử thương, hoặc ngắc ngư quằn quại.”
[28]

Theo ngài Dalai-Lama giải
thích
rằng: “Tôi tin rằng sự khổ đau này là do sự thiếu hiểu biết khi con người
gây tổn thương và khổ đau đến người khác để đeo đuổi tìm kiếmhạnh phúc cho
riêng mình (sự hài lòngsở hữu của cá nhân), hạnh phúc thật sự đến từ cảm giácnội tâmbình an và sự thiểu dục tri túc, muốn đạt được phải thông qua sự tu tậplòng vị tha (từ bi) để loại trừ lòng ích kỷtham lam, tất cả chúng ta đều là
con người, chúng tatìm kiếmhạnh phúc để cố gắng tránh xa khổ đau” [29]

Theo lời dạy của Đức Phật,
tưởng
chấp ngã là một sự mơ hồtrừu tượng, niềm tinsai lầm, nó không có thật. Sự
chấp ngã ấy sinh ra tư tưởngsai lầm về ý niệm “tôi” và “của tôi” tham lamích
kỷ
, chấp chặt, thù hận, ác ý, tự phụ, kiêu ngạo, tất cả những phiền não này
nguyên nhân của bạo động dẫn đến vấn đềxung độtcá nhân, chiến tranh giữa các
quốc gia, tóm lạitừ ý niệm sai lầm này tạo nên tất cả tội ác và gây bất an trong
cuộc đời. [30]

Học giảU. N.
Bliswas cũng đồng quan điểm này “tham ái (tṛṣṇā)
là nguồn gốc khổ đau sinh tử luân hồinguyên nhân của tất cả tội ác, bởi vậy
chúng ta phải tiêu diệt tâm tham ái, thì khổ đau, bạo động chiến tranh và sự giết
người, động vật sẽ chấm dứt” [31]

Trong Kinh Sigalovada của Dīgha-Nikāya,
Đức Phật đưa ra sáu điều khiến hao tốntài sản, con người trở nên nghèo nàn
đau khổ. (1) ham mê uống các loại rượu, (2) du hành đường phố phi thời, (3) la
đình đám hý viện, (4) đam mê cờ bạc, (5) thân cận các bạn ác, (6) quen thói
lười biếng. [32]

Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền
não
tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ
để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh, nhằm dứt khổ được vui. Giới định
tuệ ấy được thiết lập trên tám con đường đưa đến sự an lạcgiải thoát đó là
Bát-chánh-đạo.

VI. Mối quan hệ Giới-Định-Tuệ với Bát-chánh-đạo

Mục tiêugiáo dục của Phật giáo
hoàn thiện nhân cách đạo đức của con người, giúp con người sống đúng nhân cách
của chính mình, nhân cách ấy được thiết lập trên nền tảng Giới-Định-Tuệ thông
qua Bát-chánh-đạo: được chia làm ba nhóm như sau: [33]

Nhóm
I. Giới (Śīla)

Chánh ngữ:
(sammā-vācā) không nói dối, không nói
ác khẩu, không nói lưỡi hai chiều, không nói thêu dệt.

Chánh
nghiệp
: (sammā-kammantā) không giết hại
sinh mạng, không trộm cướp, không tà dâm, không uống rượu

Chánh mạng:
(sammā-ājiva) không buôn bán sinh vật,
không buôn bán rượu, không buôn bán chất độc, không buôn bán nô lệ.

Nhóm II, Định (Samādhi)

Chánh
tinh tấn
🙁sammā-vāyāma)Tinh tấnngăn ngừa điều ác chưa phát sanh, tinh tấn dứt trừ điều ác đã phát sanh, tinh tấn
làm tăng trưởng điều thiện đã phát sanh.Tinh tấntăng trưởng điều thiện chưa
phát sanh được phát sanh.

Chánh niệm: (sammā-sati)
thân, khẩu, ý luôn giữ chánh niệm
không khởi ác.


Chánh định: (sammā-samādhi) Định là thiền định, Chánh địnhchuyên tâm
nhớ nghĩ một cách chân chánh tìm về cội nguồn cuộc sống nơi tâm, chuyên chú gạn
bỏ mọi phiền não không đắm trước sự thật của vạn pháp.

Nhóm III, Tuệ (Pañña)


Chánh kiến: (sammā-ditthi) thấy rõ khổ, nguyên nhân của khổ, diệt khổ
con đường đưa đến diệt khổ (tóm lại thấy rõ sự thật của Tứ-Diệu-Đế)


Chánh tư duy: giải thoáttư tưởngtham lam, sân hậnđộc ác.

VII. Tổ chức xã hội và chính trị

a)
Tổ chức xã hội:

Đối
với tổ chức xã hội Hindu tại Ấn-Độ thời xưa chủ yếu dựa vàogiai cấp, không có
dựa vào từng cá nhân, nguồn gốc chính ban đầu tổ chức xã hội theo bốn giai cấp
Brahmins (Bà-la-môn), Kshatriyas (Sát-đế-lợi), Vaishya (Phệ-xá), Shudras (Thủ-đà-la), ngày nay bao gồm năm giai cấp, giai cấp thứ năm ấy
được gọi là “panchamas”* or “untouchabl”. Họ không công nhận tình anh em, vì họ
tin rằng xã hội của họ dựa trênlý thuyếtcon người được sinh ra từ những phần
khác nhau của vị Thần, Theo Ṛg-Veda thì bốn đẳng cấp được sinh ra từ một nguồn, từ
trên cùng cơ thể của con người sơ thuỷ (Puruṣa): Bà-la-môn được sinh ra từ
miệng; Sát-đế-lợi sinh ra từ tay; Phệ-xá sinh ra từ bắp vế; và Thủ-đà-la sinh
ra từ chân [34]

Đức Phậtchưa bao giờ dạy rằng
bất kỳ người nào tôn quý nhất trong cõi đời, Ngài bảo rằng: “tất cả đều bình đẳngmọi người đều có
thể chứng Niết-bàn, hòa bình và sự thịnh vượng đối với tất cả mọi người. Đức Phật
bảo rằng cũng giống như nước từ con sông Hằng (Ganga) nó từ Jamuna, nó
chảy vào biển, tất cả đều nước biển, cũng giống vậy không có sự phân biệt giữa
con người khi họ vào tôn giáo của Ngài. Vì vậy, tất cả bình đẳng trong tôn giáo
của Ngài [35]

Phật tínhbình đẳng trong mọi chúng sinh” là tư tưởngnhân quyền
trong xã hộimọi người đều được tôn trọng như nhau để phá bỏ giai cấp cân bằng
xã hội

b) Phật giáo và chính trị

Trong Tăng-chi-bộ-kinh: Đức
Phật
đã chỉ ra, chính các bậc Vua chúa là người phải an lập mình vào chánh pháp (dhamma),
hiếu đạo với cha mẹ và có lòng chánh trực, tránh những thói hư tật xấu và làm mẫu
mực cho thần dân của mình.

Ngài nói: “Nếu Vua là người được
liệt vào hàng chánh trực nhất trong số những thần dân sống không chánh trực của
mình. Thời có cần phải nói người khác không? Mọi người sẽ noi theo gương Vua. Nếu
Vua sống không chánh trực thì cả nước sống trong thống khổ… nếu Vua sống ngay
thẳng, mọi người sẽ tích cực noi gương Vua và cả nước sẽ sống trong hạnh
phúc” [36].

Lại nữa Đức Phật bảo rằng:
“khi người lãnh đạo (cai trị, cầm quyền) một quốc giacông bằngđức hạnh,
các bộ trưởng (đại thần) cũng trở công bằngđức hạnh, khi các bộ trưởng công
bằng
đức hạnh những giới chức cao cấp trở nên công bằngđức hạnh, khi giới
chức cao cấp công bằngđức hạnh thì đội ngũ và đoàn sinh trở nên công bằng
đức hạnh, khi đội ngũ đoàn sinh trở nên công bằngđức hạnh thì người dân
trở nên công bằng và đức hạnh” [37]

Trong Jataka Đức Phật dạy 10
điều cần thiết cho một chính quyền tốt được gọi là “Dasa Raja Dharma=Thập-vương-pháp.”
Mười điều này có thể áp dụng cả đến ngày nay cho bất cứ một chính quyền muốn
cai trị nước hòa bình, 10 nguyên tắc đó là: (1) không thành kiến, tránh xa lòng
ích kỷ, (2) duy trìđặc tính cao, (3) sẵn sàng hy sinh những thú vui riêng tư
chăm lo hạnh phúc cho người dân (4) chân thậthết sứcliêm chính (5) sống đời sốnghiền lành (6) đời sốngđơn giản
để người dân tích cực noi theo, (7) không bị bất cứ hình thứcsân hận nào, (8)
thực hiệntinh thầnbất bạo động, (9) thực hành lòng kiên nhẫn, (10) tôn trọngý kiếnquần chúng để động viên hòa bình và hòa hợp[38]

Lại nữa một quốc gia muốn hưng
thịnh, trở thành cường quốc không bị ngoại xâm, xâm hại và thôn tính, không
phải đi chiếm, xâm lấn những đất nước khác mà sức mạnh nằm trong lòng dân vì
thế đức Phật đưa ra bảy nguyên tắc để một quốc gia hưng thịnh không bị diệt
vong
. Khi vua Ajātasattu Vedehiputta (阿闍世
Pl: Ajātasattu Vedehiputto Vua A Xà Thế) của nước Māgadha (Ma Kiệt Đà) Vua A Xà
Thế
muốn tấn công nước Vajjins (跋 祇.越祇. Pl.: Vajji= Nước Bạt Kỳ) bấy giờ đức Phật đã dạy bảy điều
để một quốc gia hưng thịnh như sau: (1) sinh hoạtdân chủ, (2) tình đoàn kết
dân tộc, (3) nguyên tắc pháp trị, (4) sự hòa hợp các thế hệ, (5) tôn trọngphụ
nữ
, (6) tôn kính các tín ngưỡng, (7) ưu đãi các bậc minh triết. Đây là 7 nguyên
tắc giúp quốc gia hưng thịnh và tránh diệt vong. Sau khi nghe Tôn giả A Nantrả
lời
rằng dân Vajji đã thực hiện 7 pháp này rất tốt đẹp, Đức Phậtkết
luận
:”Thế thì dân Vajji sẽ phú cường, không ai có thể chinh phục
được”. [39]

Lại nữa trong Kinh
Cakkavatti Sihanada đức Phật khuyên thêm về tư cách của người lãnh đạo: (1) người
cầm quyền tốt hành động vô tư, không nên thành kiến và không kỳ thị giữa nhóm
này nhóm khác (2) người cầm quyền tốt không ấp ủ bất kỳ các loạisân hận nào với
ai, (3) người cầm quyền tốt không nên sợ hãi bất kỳ điều gì khi thi hànhluật
pháp
, nếu luật pháp ấy đúng, (4) người cầm quyền tốt phải có sự hiểu biết
ràng
luật lệthi hành, không phải luật lệ phải thi hành chỉ vì người cầm quyền
có quyền hành để thi hành luật ấy, luật pháp phải được thi hành một cách hợp lý
và hợp lẽ [40]

Bồ-tát Long Thọ (Nāgārjuna)
đã vạch ra đường hướng cai trị đất nước dựa trên bốn nguyên tắc sau: (1) việc
chuyển hóatâm thức và đổi mới xã hội không thể tách rời nhau, (2) vai tròtối
hậu
của cá nhân trong hành trìnhgiác ngộ là điểm then chốt của đạo đức chính
trị, (3) việc truyền báchánh pháp tạo cơ hội mọi ngườitu họcthành tựugiác
ngộ
yêu cầu quan trọng của nhà lãnh đạo, (4) nhà lãnh đạo phải tìm mọi cách
để thỏa mãn những nhu cầu kinh tế của mọi người để họ có thời giờtu học
hành trìchánh pháp, Ngài còn vạch ra một chương trìnhcụ thểchi tiết về an
sinh, kinh tế xã hội y tế và giáo dục rất nhân bảntiến bộ[41]

Ngoài ra ngài Long Thọ còn đề ra 10 phẩm chất đạo đứctốt
đẹp
cho vị Vua để cai trị đất nước: Vua phải thực hànhtinh thầnbất bạo động,
cấm giết hại sinh mạng (ahiṃsā), cấm
trộm cướp, cấm tà dâm, kiểm sóat lời nói của mình, tránh vu khống, triệt đểtừ
bỏ
lòng tham, sân, và tránh giải trí những thứ sai trái, kiêng cữ say rượu,…
dẫn đến một vị vua chân chính, Ngài khuyến khích vua thực hành những phẩm chất
đạo đức ở trên thì vua sẽ được niềm tintuyệt đối của thần dân, nếu đi ngược
lại những quy tắc ấy làm mất niềm tin của thần, dân. [42]

VIII. Asoka
(vua A-Dục) tấm gương sáng
cai trị một quốc gia hòa bình và an
lạc

Trong lịch sử của đại đế Asoka (vua
A-Dục) vào thế kỷ thứ III tr CN. [43]

Sau những cuộc chinh phạt đẫm máu
của mình, đại đế Asoka cảm thấykinh hoànghối hận, chính giáo lý của đức
Phật
đã chuyển hóacuộc đời của vua Asoka với những chiến thắng quân sự, vũ khí
thay bằng chiến thắng đạo đứctâm linh. Sau đó vua Asoka thực hiệntinh thầnbất bạo độngthực hành theo năm giới, dưới sự cai trị của đức vua Asoka hoàn
toàn
đã thay đổi chính sách cai trị điềm đạmôn hòa, từ bỏ lối tra tấn, không
bạo lực, dân chúng được che chở mà ngay cả thú vật cũng được bảo vệ, Asoka ra
lệnh cấm săn bắn, nhà vua còn kiêng cữăn thịt khuyến khích dân chúng ăn chay,
ngoài ra nhà vua còn làm nhiều việc phúc lợi cho xã hội cất nhà cho người lữ
hành nghỉ chân, xây dựng bệnh viện, các khu an dưỡng, cấp thuốc trị điều dưỡng
cho những tù nhân. [44]

IX. Giáo dụcđạo đức trong gia đình

Trong bài kinhSigāla
Sutta
(Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt)
[45]

Đức Phật dạy về đạo đức của người Phật tửtại gia với những
ngôn ngữ rất bình dị, Ngài dạy cha mẹ phải có trách nhiệm với con cái, đạo làm
con, đạo vợ chồng, mối quan hệ bạn bè, thân quyến, giữa chủ và tớ, phận sự đối
với tôn giáo.

Hơn hai ngàn năm trăm năm trước Đức Phật dạy về
năm bổn phận căn bản của cha mẹ đối với con cái như sau:

– “Ngăn ngừa con khỏi những điều bất thiện;
– Khuyến khích, động viên con làm những điều lành;
– Cho con học nghề nghiệp;
– Hướng con đến một cuộc hôn nhânthích hợp;
– Trao truyền sản nghiệp (vật chất và những giá trị văn hoá truyền thống) cho
con một cách đúng

Con cái cần phảibiết ơncha mẹ, tự có trách
nhiệm
với chính mình và với cha mẹ dưới năm điểm căn bản

Cha mẹ đã nuôi dưỡng ta, ta phải nâng đỡcha
mẹ
;
– Ta phải thay cha mẹchu toàn bổn phận;
– Ta phải giữ truyền thốnggia đình;
– Ta phải xứng đáng là người thừa kế;
– Ta phải làm phước để hồi hướng công đức đến cha mẹ.”

Những lời dạy này vẫn cógiá trịthiết thực ngay trong thời đại của chúng ta, nếu tất cả các bậc cha mẹ
ghi nhớ và thực hành những lời dạy này chắc chắn rằng gia đình sẽ bớt xung đột,
xã hội sẽ bớt được rất nhiều tệ nạn, và cuộc sống nói chung sẽ bớt được nhiều
rủi ro và khổ đau không cần thiết. Con cái cần phảibiết ơncha mẹ, tự có trách
nhiệm
với chính mình và với cha mẹ.

Đức Phật đã thiết lậphệ thốngđạo đức khuyến khích
người cư sĩtại gia sống chân chính, và chu toàntrách nhiệm bổn phận một cách
tốt đẹp trong các mối quan hệ nhằm xây dựng một xã hộichân thiện mỹ (văn mình
lành mạnh)

X. Kết Luận:

Tóm lại qua sự phân tích trên, chúng ta thấy rằng, vai
trò
Phật giáo rất quan trọng cho vấn đề phát truyển xã hội, nếu bất kỳ một quốc
gia
nào áp dụng theo nền tảng đạo đứcPhật giáo thì chắc chắn rằng sẽ mang đến
một quốc gia hưng thịnh chấm dứt tệ nạn xã hội, một xã hộichân thiện mỹ.

Để làm được điều đó không phải chuyện dễ, đòi hỏi những
nhà lãnh đạoquốc gia phải làm gương áp dụngthực hành trước theo lý tưởng
đạo đứcĐức Phật đã thiết lập ra, dân chúng sẽ noi gương theo, như tấm gương
của Đại đế Asoka là một minh chứng

Ngoài ratrách nhiệm Tăng sĩ cũng rất quan trọng phải
trách nhiệm chia sẻ kinh nghiệmhiểu biết hướng dẫn Phật tửtu hành bằng
những khóa tu để giáo dụcđạo đứctuổi trẻ nhận rõ tác hại của tâm tham, sân,
và si

Nhờ những khóa tu ở các tự viện hiện nay, giúp các em
trẻ học hỏigiáo lý, thực tậpthiền địnhđể tâmôn hòa và có niềm tinvững chắc
về nhân quả thì chắc chắn các em không bao giờ phạm pháp rơi vào vòng lao lý.

Mỗi người tự ý thứctu hànhchấn chỉnhđạo đức cho
mình để hoàn thiện nhân cách làm người là góp phần xây dựngxã hộivăn minhtốt
đẹp
, hòa bình, và an lạc,

“Kẻ
trí sống tại gia,
Thấy địa ngụcsợ hãi,
Do thọ trìThánh pháp,
Trừ bỏ tất cả
ác
 Không sát hạichúng sanh,
 Biết rồi hay lìa bỏ,
Chân thật không
nói dối,
Không trộm của
kẻ khác,
Tri túc với gia
phụ
,
Không ái lạc vợ
người,
Dứt bỏ việc
uống rượu,
Gốc tâm loạn
cuồng si
Thường nên niệm
chánh giác,
Suy nghĩ các
pháp lành,
Niệm Tăng, quán
giới cấm,
Do đó được hoan
hỉ…”
[46]

Vì vậy giới là nền
tảng căn bảnđạo đức của con người, và thực hiệntinh thầnbất bạo động, giữ
hòa bình cho gia đình, xã hộithế giới. Giới như chiếc bè đưa người vượt
dòng sông sinh tử đến bờ an vui hạnh phúcmiên viễn (Niết-bàn)

Thích Trí Giải

_____________________________________________

Chú
thích:

[1] Ḗ.
Lamotte, History of Indian Buddhism,
S. W. Boin (translated from the French) Université Catholique De Louvain
Institut Orientaliste Louvain-la-Neuve 1988, p. 149.

[2]Dhammapāda,
The Word of the Doctrine, K. R.
Norman (tr) Published by The Pālitext Society Oxford 2000. p. 28

[3]Pāli Dictionary

[4] Kamla
Jain, The Concept of Pañcaśila in Indian Thought,
P.V Reseach Institute Varanasi 1983, p.

[5] K.H.
Shah. “The Buddhist Path of Purification Its Socio-Spiritual Signification” K.
Sankarnarayan (ed) Contribution of Buddhism World Culture,
Somaiya Publishcations 2006, Vol. I. pp-68-69.

[6] B.
Buddhaghosa, The Path of Purification
(Visuddhimagga),
Ňāṇamoli (translated from the Pali) Buddhist Publication Society 2010, p. 10.

[7] M.
Monier-William, Sanskrit-English
Dictionary
, Motilal Banarsidass Publisher 2005 p. 1079. 

[8] 四分律比丘戒本 T22n1429, tr. 1015a04

[9] 四本比丘尼戒本 T22n1431, tr. 1030c15

[10] 沙彌十戒并威儀 T24n1471,
tr. 0926b03

[11] 沙彌尼戒經 T24n1474, tr. 937a11

[12] Sáu học pháp của thức-xoa-ma-na,
các luật bộ đại để tương đồng. Riêng Căn bản thuyết hữu bộ, có nội dung khác hẳn:
1. Không được đi đường một mình; 2. Không được lội sông một mình; 3. Không được
đụng chạm thân thể đàn ông; 4. Không được ngủ chung nhà với đàn ông; 5. Không
được làm mai dong; 6. Không được che dấutrọng tội của ni và thêm sáu tùy pháp:
1. Không được cất giữ vàng bạc làm của riêng; 2. Không được cạo lông chỗ kín;
3. Không được đào xới đất nơi mà cây cối có thể mọc; 4. Không được cố ý nhỗ cây
cỏ còn sống; 5. Không được ăn đồ ăn mà người không mời; 6. Không được ăn đồ ăn
đã được người khác đụng đến. Căn bản ni 18 (Đại 23, tr. 1005a2). Cf.
Pali, Bhikkhunivibhaṅga, Pā. 63, Vinaya. iv.
319.

Trích từ Karmavacanābindusāra, HT. Thích Trí Thủ dịch giảng Yết-Ma-Yếu-Chỉ chương IV

[13]Tiếp
theo

[14] T24n1476 tr. 939c15

[15] 梵網經 T24n1484 tr. 1004b16- 1005c25:

[16] T24n1484 tr. 1006a01

[17] H. Shukla, “Pañcaśīla”, M. Tiwary (ed.) Perspectives on Buddhist Ethics,
Published Department of Buddhist Studies Delhi University 1989 p. 80

[18]Tiếp theo

[19] T22n1429, tr. 1015c13-16.

[20] The Śūraṅgama
Sūtra
(Leng Yen Ching) C. Luk (tr.)
Mushiram Manoharlal Publishers 2007, p. 153

[21] Tiếp theo, p. 155.

[22] 夫士處世斧在口中 所以斬身由其惡言 T24n1471,
p. 926c19:

[23]Dīgha-Nikāya,
III 183. M. Walshe (tr) The Long
Discourses of the Buddha
, Wisdom Publication 1995. p. 462

Xem Trường Bộ Kinh

[24] 寧飮洋銅。愼無犯酒 T24n1471 tr. 926c24:

[25] Aangutara
Nikāya. II. 230. F. L. Woodward
(tr.), The Book of the Gradual Sayings,
pp. 238-239

[26]
K.H. Shah, op.cit.,
p. 69.

[27] S. B. Singh, “Buddhism
and Social Harmony”,Y. S. Rao (ed) Buddhism
and Modern Society
, Deep Publication 2008, pp.2-3. Và xem I. M. Ghosh, Ahiṃsā Buddhist and Gandhian, Indian
Bibliographies Bureau Co-Publisher 1947, pp. 4-9 xem U. N. Bliswas, “Buddhism-A
Forensic-Criminological Approad”, K. Sankarnarayan (ed.) op.cit., pp. 12-13

[28] Majjhima Nikāya. I.87. Ñāṇamoli
& Bodhi (tr.) The Middle Length
Discourses of the Buddha,
 p. 181

[29] Vyas & D. V. Nene, Changing Course of Brahmaputra Dalai Lama
the Change Initiator,
p. 51

[30] P. Sahni, Environmental Ethics in Buddhism, C. S.
Prebish & D. Keown (ed.) Routledge
Taylor& Francis Group London& New York 2008, p. 116.

[31]
U. N. Bliswas, op.cit., pp. 12-13

[32] “Sigalovada sutta” Dīgha
Nikāya, III. 180
,
M. Walshe (tr) The Long Discourses of the
Buddha
, Wisdom Publications, 1995 p. 141.

[33]
Ibid., p. 19 và xem P. Abai, Buddhism and
Modern Sosiety
op.cit., 103.

* (ở Ấn Độ) (người) thuộc một đẳng cấp Hindu mà nếu đụng chạm tới họ là bị coi (như) làm ô
uế những người thuộc các tầng lớp trên; tiện dân

[34]
P.
Abai, Buddhism and Modern Sosiety
op.cit., 105.

[35]Tiếp theo

[36]
Piyadassi Thera, The Buddha’s
Ancient Path,
Pháp Thông Việt dịch
chương X

[37]
xem P. Abai, đã trích dẫn ở trên, trang 108

[38]Tiếp theo

[39] 佛告阿難。人數相集會講議正事不。1)長幼和順轉更増盛。2)國人君臣和順上下相敬。3)人奉 法曉忌不違禮度。4)人孝事父母敬順師長。5)人恭於宗廟致敬鬼神。6)人閨門眞正潔淨無穢至於戲笑言不及邪。7)人宗事沙門敬持戒者瞻視護養未嘗懈 T1n1, tr. 11a8-11b13. Và xem Dīgha-Nikāya. I.6. M.
Walshe, op.cit., p. 68. Xem Anguttara
Nikāya
. II.208. F. L. Woodward (tr.) the
Book of the Gradual Sayings
, London Published for the Pali text society
1960 p. 27

[40] P. Abai, Buddhism
and Modern Sosiety
op.cit., 108

[41] Xem Đức PhậtPhật Pháp, Narada, Phạm Kim Khánh dịch NXB
TPHCM, 1998

[42] V.V.S.
Saibaba “Contribution of Buddhist Ethics and State Craft to World Culture, K.
Sankernarayan (ed) Contribution of
Buddhism to World Culture
, Somaiya Publication 2004 p. 261.

[43] I. M. Ghosh, đã trích dẫn trên, p. 58.

[44
]
Hinduism Buddhism and Jainsm in Ancient
India
, B.R. Verma & S.R. Bakshi (ed) Published by Ajay Verma 2005 pp.
115-116.

[45] Dīgha Nikāya, III. 180, M. Walshe (tr) The Long Discourses of the Buddha,
Wisdom Publications, 1995 p. 161, và xem Dīgha Nikaya Trường Bộ Kinh 31.
Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt (Sigàlovàda sutta) HT. Thích Minh Châu Việt
dịch.Trang 538

[46]中 阿 含 經 Kinh Trung A Hàm Hán Dịch:
Phật Đà Da Xá & Trúc Phật Niệm, Việt Dịch & Hiệu Chú: Thích Tuệ Sỹ,
Phẩm Đại, Kinh Ưu Bà Tắc

(CÙNG TÁC GỈA)