Nghiên cứu giới Tỳ-kheo của Thượng tọa bộ: Đối chiếu với năm phái luật Phật giáo

VIỆN NGHIÊN CỨUPHẬT HỌCVIỆT NAM
LÝ PHỤNG MY
NGHIÊN CỨU GIỚI TỲ-KHEO CỦA THƯỢNG TỌA BỘ 
(ĐỐI CHIẾU VỚI NĂM PHÁI LUẬT PHẬT GIÁO)
Dịch giả  THÍCH NHẬT TỪ

LỜI GIỚI THIỆU

Sách “Nghiên cứu giới Tỳ-kheo của Thượng tọa bộ: Đối chiếu với năm phái luật Phật giáo” là luận ángiá trị của Lý Phụng My trình Viện Nghiên cứuPhật học Trung Hoa vào năm 1999.

Phải thừa nhận rằng đây là tác phẩmnghiên cứucông phu, tỉ mỉ và có độ chính xác cao về giới luật của Thượng tọa bộ và các phái luật Phật giáo. Thượng tọa Nhật Từ dành thời gian dịch tác phẩm này và bổ sung các chú thích (đối với trường hợpcần thiết), góp phần làm cho công trình càng thêm giá trị.

Hiện nay, mảng nghiên cứu về Luật học Phật giáo đã được các học giả trong nước và nước ngoài quan tâm, nhưng chưa phải là nhiều. Do đó, việc dịch tác phẩm về Luật học Phật giáo sẽ góp phần làm phong phú nền văn họcPhật giáo nước nhà, là điều đáng được tán dương

Tôi tin rằng với tính nghiêm túc trong khảo cứu, so sánhnhận định của tác giả sẽ giúp cho giới nghiên cứuPhật họchành giả thêm nguồn tư liệu và ứng dụnggiới luậtPhật giáo vào cuộc sống. Bên cạnh đó, một số khái niệm Luật học Phật giáo được dịch giả chuyển sang ngôn ngữhiện đại, giúp độc giả dễ tiếp cận với bản văn Luật vốn khô khan theo cách nghĩ của nhiều người, trở nên sinh độngdễ hiểu hơn. Qua đó, cũng giúp chúng ta thấy rõ giá trị của các điều khoản giới luật thuộc văn hóa ứng xử của Tăng đoàntrong đời sống hằng ngày, cũng như các phương phápgiải quyết các mâu thuẫn rất nhân văn của Tăng đoànPhật giáo thời đức Phật đến ngày nay.  

Tôi trân trọnggiới thiệu bản dịch đến với độc giả gần xa. Tôi chúc các Sa-di và Tăng Ni trẻ được nhiều pháp lạcứng dụnglời Phật dạy vào cuộc sống tu hành cao quý, nhằm mang lại hạnh phúc cho bản thân và số đông.

Trân trọng.

Pháp việnMinh Đăng Quang, TP. Hồ Chí Minh

Mùa Phật đản PL. 2565 – DL. 2021

Viện trưởng Viện Nghiên cứuPhật họcViệt Nam

Hòa thượng Thích Giác Toàn


 

LỜI GIỚI THIỆU

  Quyển “Nghiên cứu giới Tỳ-kheo của Thượng tọa bộĐối chiếu với năm phái luật Phật giáo” là luận án của Lý Phụng My (李凤媚) bảo vệthành công tại Viện Nghiên cứuPhật học Trung Hoa năm 1999.

Sở dĩ tôi đổi tựa đề nguyên tác chữ Hán “Nghiên cứu giới Tỳ-kheo trong luật Pāli” (巴利律比丘戒研究) thành tựa đề hiện tại trong bản dịch tiếng Việt là vì, bên cạnh việc nghiên cứu giới Tỳ-kheo của Thượng tọa bộ (P. Theravāda, S. Sthaviravāda, 上座部) trong ấn bản Pāli nhưng thực chất, tác giả đã so sánh từng điều giới trong 227 điều giới của Thượng tọa bộ với từng điều giới của năm trường phái giới luậtPhật giáo bằng chữ Hán trong Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh (大正新修大藏经) gọi tắt là Đại Chánh tạng (大正藏)  hoặc Đại (大) bao gồm (i) Luật tứ phần (四分律),[1](ii) Luật ngũ phần (五分律),[2] (iii) Luật thập tụng (十誦律),[3] (iv) Luật Tăng-kỳ (僧祇律),[4] (v) Luật căn bản (根本律)[5] và (vi) Bản dịch tiếng Anh của I.B. Horner về giới Tỳ-kheo trong bản Pāli của Hội thánh điển Pāli (Pāli Text Society, thường viết tắt là PTS).

Luật tạng(律藏, Vinaya Piṭaka) Pāli của Thượng tọa bộ có 5 tập: (i) Đại phẩm (大品, Mahāvagga), (ii) Tiểu phẩm (小品, Cullavagga), (iii) Kinh phân biệt (经分别, Suttavibhaṅga) và Đại phân biệt (大分別, Mahāvibhaṅga), (iv) Kinh phân biệt (经分别, Suttavibhaṅga) và Đại phân biệt (大分别, Mahāvibhaṅga), Tỳ-kheo-ni phân biệt (比丘尼分别, Bhikkhunīvibhaṅga), (v) Phụ lục (附随, Parivāra). Trong các tập trên, tập 3 và 2/3 của tập 4 là phần phân tích giới Tỳ-kheo, còn gọi là phân tích giới bổnChú giảiLuật tạng (律释, Samantapāsādikā) của ngài Giác Âm (覺音, Buddhaghosa) được Hội thánh điển Pāli xuất bản năm 1924-1947 và các bản dịch tiếng Anh rất hữu ích đối với độc giả muốn nghiên cứu chuyên sâu về giới luậtPhật giáo.

Đại tạng kinh Nam truyền bản Hán dịch được Nhà xuất bản Diệu Lâm (妙林), chùa Nguyên Hanh (元亨寺) ấn hành vào năm 1990, gồm 5 tập, khác với trật tự của ấn bản Pāli nêu trên nhưng nội dung thì trung thành với ấn bản Pāli: (i) Phân tích Giới bổn (经分别) và Phân tích giới Tỳ-kheo (大分别), (ii) Phân tích Giới bổn (经分别), Phân tích giới Tỳ-kheo (大分别) và Phân tích giới Tỳ-kheo-ni (比丘尼分别), (iii) Đại phẩm (大品), (iv) Tiểu phẩm (小品), (v) Phụ lục (附随).

Tạng luật Pāli do Thượng tọa Indacanda dịch tiếng Việt có thể truy cập tại trang nhà tamtangPāliviet.net[6] gồm có 9 tập: (i) Pārājikapāḷi & Phân tích giới Tỳ-khưu I,(ii) Pācittiyapāḷi bhikkhu & Phân tích giới Tỳ-khưu II,(iii) Pācittiyapāḷi bhikkhunī & Phân tích giới Tỳ-khưu-ni,(iv) Mahāvaggapāḷi I & Đại Phẩm I,(v) Mahāvaggapāḷi II & Đại Phẩm II,(vi) Cullavaggapāḷi I & Tiểu Phẩm I,(vii) Cullavaggapāḷi II & Tiểu Phẩm II,(viii) Parivārapāḷi I & Tập Yếu I,(ix) Parivārapāḷi II & Tập Yếu II.

Tác phẩm Nghiên cứu giới Tỳ-kheo này gồm có hai phần. Phần thứ nhất giới thiệu khái quát về Luật tạng Pāli, các kiền-độ (khandhaka, 犍度), Phân tích Giới bổn (suṭṭavibhaṅga) và phương phápnghiên cứu sách này. Phần thứ hai là nghiên cứuchú giải giới Tỳ-kheo trong Luật tạng Pāli (Vinaya Piṭaka). Tác giảnghiên cứu bản gốc (研究底本), cung cấp các chú thích (译注) xác đáng và hữu ích, dịch mới các thuật ngữ ra tiếng bạch thoại, tức quốc ngữ Trung Quốc để người Trung Quốchiện đại có thể dễ hiểu các thuật ngữPhật học bằng Hán cổ. Đây là tác phẩmnghiên cứu giới Tỳ-kheo có hệ thống, đối chiếu những điểm tương đồng và dị biệt giữa các truyền thống Luật Phật giáo, rất hữu ích cho các giảng viên và sinh viên Phật học tham khảo về giới Tỳ-kheo.

Từng điều giới khoản trong sách này gồm các mục sau đây: (i) Tiêu đề giới khoản bằng tiếng Việt và chữ Hán trong ngoặc đơn, xuất xứ điều giới trong Luật tạng Pāli, cũng như số tập, trang trong bản tiếng Anh của I.B.Horner, (ii) Nguyên tác Pāli của từng giới khoản, (iii) Bản dịch bạch thoại, (iv) Bản dịch tiếng Việt, (v) Nhân duyênquy định điều khoản giới này, (vi) Trường hợp nào là vi phạm giới này gồm đối tượng và động cơ phạm giới, (vii) Trường hợp không vi phạm, (viii) So sánh điều khoản giới này trong Luật tạng Pāli với năm trường phái luật Phật giáo bằng chữ Hán và bản dịch tiếng Anh của I.B.Horner, (ix) Các chú thích về thuật ngữ Pāli của tác giả ở phần cước chú, cũng như các chú thích chữ Hán của dịch giả.

Ở cuối sách, ngoài thư mục tham khảo chuyên dùng cho đề tài giới luậtPhật giáo, tác giả còn cung cấp ba bảng đối chiếu rất hữu ích. Thứ nhất là bảng so sánh tổng quát số lượng các giới khoản trong bảy nhóm giới và cách dứt tranh chấp giữa sáu trường phái luật Phật giáo cũng như giới bản luật của Tây Tạng, bản văn Tỳ-nại-da, Giải thoát giới kinh và bản tiếng Sanskrit. Thứ hai là bảng đối chiếudanh mục 227 điều giới Tỳ-kheo trong Luật tạng Pāli với năm trường phái giới luậtPhật giáo bằng chữ Hán. Sau cùng là bảng đối chiếu địa danh và tên người giữa Hán văn – Pāli.

Để giúp độc giảViệt Namdễ hiểu các thuật ngữgiới luậtPhật giáo, tôi dùng các khái niệm hiện đại để thay thế các thuật ngữ Hán cổ gồm bảy nhóm giới khoản (thất tụ, 七聚), nguyên tắc dứt tranh chấp (灭诤) và các thuật ngữ luật học khác trong dịch phẩm này.

(i) Trục xuất (驱摈, pārājika) thay cho phiên âm “Ba-la-di” (波罗夷).

(ii) Tăng tàn (僧残, Saṅghādisesa) thay cho phiên âm Tăng-già-bà-thi-sa (僧伽婆尸沙).

(iii) Không xác định (aniyata) thay cho từ “bất định” (不定).

(iv) Xả vật (舍忏, nissaggiya pācittiya) thay cho phiên âm “Ni-tát-kỳ ba-dật-đề” (尼薩耆波逸提) hay từ “đơn đọa” (單墮).

(v) Sám hối (忏悔, pācittiya) thay cho các phiên âm “Ba-dật-đề (波逸提), Ba-dật-để-ca (波逸底迦), Ba-dạ-đề (波夜提) hay từ “xả đọa” (捨墮).

(vi) Hối lỗi (patidesemi) thay cho từ “hối quá” (悔过).

(vii) Điều nên học (sikkhākaraṇīya) thay cho từ “chúng học” (众学).

(viii) Dứt tranh chấp (灭诤, adhikaraṇa samatha): Thay cho từ “diệt tránh” (滅争).

Tương tự, các từ sau đây: “điều khoản giới luật”, hay “giới khoản” thay cho “Ba-la-đề-mộc-xoa giới” (波羅提木叉戒), “đọc giới” thay cho thuyết giớihay nói giới (說戒), “biểu quyết Tăng đoàn” thay cho “yết-ma” hay “kiết-ma” (羯磨), “gửi nguyện vọng” thay cho “gửi dục” (說欲), “dạy khuyên” thay cho “giáo giới” (教誡), “truyền giới” (授戒, chữ giới có bộ thủ bên trái) thay cho “thụ giới”, “xóa tội” (出罪) thay cho “xuất tội”, “chủ đề” thay cho “kiền-độ” (犍度), “làm hài lòng Tăng đoàn” thay cho “ma-na-đỏa” (摩那埵) và nhiều từ khác trong sách này.

Tôi hy vọng và tin rằng cách dùng các thuật ngữhiện đại sẽ giúp người đọc dễ hiểu, thích thúứng dụnggiới luật do đức Phậtthành lập, vào trong cuộc sống, nhờ đó, đời sốngTăng đoàn được thanh tịnh, tăng trưởng và đóng góp nhiều hơn nữa vào sứ mệnh “phụng sự nhân sinh, tốt đời đẹp đạo” và “sáng soi đạo pháp, hộ quốc an dân.”

Để hoàn thành ấn phẩm này, tôi tán dươngtri ânđệ tử của tôi là Ngộ Tánh Hạnh đã tận tụy trợ giúp tôi trong việc đối chiếu, dò bản. Cảm ơn TT. Giác Hoàng đã đọc bản thảo và góp ý chỉnh sửa chính tả vào sau thiếu phong chữ Pāli. Tôi cảm ơnĐại đức Định Phúc, học trò của tôi và hiện là nghiên cứusinh Phật học, đã giúp bổ sung các dấu Pāli bị thiếu trong nhiều đoạn giới khoản Pāli do thiếu phong chữ Pāli.

Cảm ơn Ban ấn tống thuộc Quỹ Đạo Phật Ngày Nay, chùa Giác Ngộ, đã in tặng quyển sách này để nhiều Tăng, Ni và Phật tử có thể hiểu có hệ thống, hiểu căn bảnchi tiết giới Tỳ-kheo, nhờ đó, quý trọnggiới luật, người tu hành, tu tập hạnh thánh, trở thành người hữu dụng và có giá trịtrong đời.

 

Chùa Giác Ngộ

Ngày mùng 1 tết Tân Sửu, 2021

THÍCH NHẬT TỪ

 


 

 

LỜI NÓI ĐẦU

Năm ấy, tôi theo sư phụan cư kiết hạ ở chùa Sơn. Vào một đêm mưa, các sư phụ đều trịnh trọng khoác áo cà-sa, cầm quyển tập đi về hướng thư viện. Tôi tò mò hỏi: “Đây là cái gì? Các Sư cô đang làm cái gì?” Sư phụ vừa móc khâu cà-sa, vừa nói: “Chúng tôi phải đi tụng giới. Đó là Giới bổn (戒本). Cư sĩ không được xem Giới bổn.”

Tôi đứng im dưới hành lang, mắt tiễn đưa họ xòe dù mà đi. Ánh đèn sáng rực trong thư viện. Cơn mưa đêm trong núi, tiếng mưa chìm ngập cả tiếng tụng giới, có khi chỉ vang truyền lại tiếng gỗ vỗ lên bàn.

Tách! “Nay, xin hỏi các vị Đại đức, có thanh tịnh không?”

Tách! “Nay, xin hỏi các vị Đại đức, có thanh tịnh không?”

Tách! “Nay, xin hỏi các vị Đại đức, có thanh tịnh không?”

Mưa gió vẫn chưa dừng, tôi luôn nghe không hết tiếng tụng giới, lúc có lúc không trong cơn mưa. Tụng giới là gì? Trong Giới bổn đã viết điều gì mà người tại gia như tôi không được xem?

Mùa thu năm 1988, tôi học tại Viện Nghiên cứuPhật học Trung Hoa, đến nay mãn khóa đã mười năm. Trong mười năm, vừa đi học, vừa học kiếm, tôi tự than văn võ không song toàn.

Vừa xuống chùa Sơn, đối với tôi mà nói, thư viện theo lối tự chọn sách trong Viện Nghiên cứuPhật học Trung Hoa thì giống điện thờ thần thánh. Đứng trước Đại Chánh tạng, tôi quan sát rất lâu, tủ sách không có khóa, không có ghi lời cảnh báocư sĩ không được phép đọc giới luật. Tôi cẩn thận đem tập 22 của bộ luật thứ nhất, lật ra xem những điều khoản giới luật khó hiểu, cũng xem luôn phần nội dung mà sư phụ không bao giờ cho phép tôi xem. Từ dạo đó, mấy bộ Luật tạng này luôn ở bên tôi.

Khi theo sư phụ đi khắp nơi, ngủ lại chùa khác, tôi nghe qua một số việc giữ giới của một số pháp sư. Một pháp sư A giữ giới “không nắm giữ vàng bạc”(不捉持金银) nên vị pháp sư cùng sống trong tập thể đành phải đạp xe lên phố, thay vị pháp sư A mua sắm. Một pháp sư B cũng không nắm giữ vàng bạc, lúc ra nước ngoài chiêm bái, tiền tài đều do vị pháp sưđồng hành bảo quản giùm.[7]

Việc thường thấy nhất là “ba y không rời thân”(三衣不离身). Mỗi lần sư phụ tôi ra ngoài qua đêm, ngoài những đồ đạc đem theo ra, còn mang theo ba y, đặt trong túi Tăngkhoảng 5 đến 9 chiếc cà-sa.[8]

Trong quá trình cầu học, những thông tin về giữ giới này thỉnh thoảnghiện lên trong tâm trí tôi. Có lẽ, vì nghe thấy không hợp lý lắm, nên tôi nhớ cực kỳ rõ, cũng vì tôi muốn hiểu rõgiới luật một cách rõ ràng. Giới luật thật sự đã quy định những việc dường như không mấy hợp lý đó sao? Quy định thế nào? Tại sao phải quy định như vậy?

Trước đây, tôi từng ngây thơ nghĩ rằng chỉ cần tìm một vị pháp sư hỏi cho ra lẽ là được rồi. Về sau, tôi phát hiện rằng kết quả vẫn luôn là sự mơ hồ, không tỏ sáng của thuở ban đầu, ngoài ra tăng thêm chút e ngại.

Lúc tôi thử tìm câu trả lời trong Quảng luật bản Hán (汉译广律) thì tình huống tiếp tụcduy trì trong trạng tháimơ hồ, không sáng tỏ. Thế là, một tia hy vọng sau cùng chính là Luật tạng Pāli.

Dưới sự giúp đỡ của tiến sĩ A.W.Barber tại Viện Nghiên cứuPhật học, tôi từng bước đọc điều khoản giới Pāli, tôi lần lần chỉnh sửa lại bản dịch giới luật, giải thích các giới từ mọi phương diện cuộc sống. Suốt thời gian bảy, tám năm dài đăng đẳng, hầu như ngày đêm, tôi làm bạn với 227 điều khoản giới này. Trong khoảngthời gian này, trong lòng tôi có hai nguyên tắc, một là “nghiên cứu giới luật từ phương diện cuộc sống của Tăng đoàn”, hai là như đại sưẤn Quang nói: “Lấy Phật phápnghiên cứuPhật pháp.”

Mấy năm trước, lúc mới bắt tay vào công việc này, tiến sĩ Barber một lần nữa cảnh báo tôi rằng tác phẩm dịch thuật về luật Pāli ra chữ Hán đã quá nhiều rồi, nhất là tác phẩm của bà I.B. Horner rất xuất sắc, mang tính toàn cầu. Vì thế, tôi nên phân tích trọng tâm của từng điều khoản giới. Chỉ mong sao dựa trênthành quảnghiên cứu mà có sự cống hiến mới.

Trước khi đem in, tôi đặc biệtcảm ơn sâu sắc đối với Hòa thượngThánh Nghiêm, người sáng lập Viện Nghiên cứuPhật học Trung Hoa. Tôi cám ơn các vị Thầy và bạn đồng tu, những người đã khiến tôi từ một cô bé nghe tiếng mưa dưới hành lang chùa Sơn mà tiến thân vào Viện Nghiên cứuPhật học.

Lúc đi theo thầy Dương Đức Huy (杨德辉) học phiên dịch tiếng Nhật, không ngờ tôi có thêm một trải nghiệm mới đối với tiếng Pāli. Năm ngoái, đến Viện Nghiên cứuPhật học Pháp Quang, tôi dự thính lớp “Đọc thánh điển Pāli” của Pháp sưHộ Pháp, càng giúp tôi nắm vững tiếng Pāli hơn.

Cám ơn thầy Trần Ngọc Giao (陈玉蛟) tức Pháp sư Như Thạch (如石法师) đã trau chuốt bản thảo đầu tiên của tôi. Tôi đón nhận được lời kiến nghịhiệu đính tỉ mỉ của Pháp sưMinh Pháp (明法法师) ở đạo tràng Gia Nghi Tân Vũ (嘉义新雨), Pháp sư Bổn Tịch (本寂法师) của Hoa Liên (花莲) và ông Châu Kim Ngôn (周金言), nhờ đó, tác phẩm này càng hoàn thiện hơn. Ông Tạ Kỳ Phong (谢奇峰) của Trung tâmbiến thiênđại toàn cầu, Đài Loan, đã cho tôi sự giúp đỡ về mặt vi tính.

Tôi cũng biết ơnHiệp hộithánh điển Pāli (PTS) đã cho phépchúng tôi trích dẫn những điều khoản giới do bà I.B. Horner dịch. Không nói gì hơn, ở đây, xin cảm ơn tất cả những người đã giúp tôi rất nhiều.

Dù nói thế nào, quyển sách này có thể xuất bản một cách thuận lợi, hoàn toàn là nhờ vào nghị lực do Pháp sưMinh Phápban tặng.

Cuối cùng, tôi xin dâng quyển sách này lên cha mẹ đã yêu thương, động viên và nâng đỡ tôi trong đời.      

Người viết trân trọng.

Ngày 22/01/1999

LÝ PHỤNG MY


[1] Viết đầy đủ: Tứ phần luật Tỳ-kheo Giới bổn (四分律比丘戒本) Đại 22, 101; Đại 22, 1023.

[2] Viết đầy đủ: Di-sa-tắc Ngũ phần Giới bổn (弥沙塞五分戒本), Đại 22, 194; Đại2, 200.

[3] Viết đầy đủ: Thập tụng Tỳ-kheo Ba-la-đề-mộc-xoa Giới bổn (十诵比丘波罗提木叉戒本), Đại 23, 470.

[4] Viết đầy đủ: Ma-ha Tăng-kỳ luật Đại Tỳ-kheo Gới bổn (摩诃僧祇大比丘戒本), Đại 22, 549.

[5] Viết đầy đủ: Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộGiới kinh (根本说一切有部戒经), Đại 24, 851.

[6] Truy cập ngày 10/1/2021: https://www.tamtangPāliviet.net/VHoc/VHoc_CBDM.htm

[7] Điều 18 xả vật “tiếp nhận tiền bạc” (接受金钱): Nếu có Tỳ-kheo tiếp nhận hoặc sai người tiếp nhận tiền bạc, hoặc là cho phépđể một bên, là xả vật. Một số pháp sưgiữ gìn giới “不捉持金银” không nắm giữ tiền bạc,” đem “nắm giữ (捉持)” xem làm “cầm lấy (拿着),” vì thế bản thân người ấy không tiếp xúc tiền bạc, do người bên cạnh thay thế làm việc cất giữ. Nhưng nếu từ văn tự Pāli giải thích, “việc nắm giữ (捉持)” nên nghĩa là “tiếp nhận (接受),” cũng có nghĩa là nội dung mà Tỳ-kheo nhận cúng dường, có thể là thức ăn, có thể là đồ dùng hằng ngày nhưng không thể tiếp nhận tiền bạc.

[8] Điều 18 xả vật “không có mang đủ ba y qua đêm”: Khi Tỳ-kheo may xong quần áo, lúc không mặc y công đức, cho dù là một đêm, nếu Tỳ-kheo không đem ba y bên mình, ngoại trừ sự đồng ý của các vị Tỳ-kheo, là xả vật. Ba y lúc bấy giờ là quần áo có công năng phòng lạnh, cũng chẳng phải là chiếc y cà-sa mà các pháp sưsử dụng ngày nay.