Niệm Hơi Thở Vào – Hơi Thở Ra

NIỆM HƠI THỞ VÀO – HƠI THỞ RA
Tỳ kheo Indacanda 2010

Li Dn Nhp:

Đây là bản dịch mới của bài Kinh
Ānāpānasatisuttam
thuộc Tạng Kinh, Trung Bộ, tập III, bài 118. Căn cứ theovăn tự, bản dịch này trình bày một số điểm xét ra có phần khác biệt so với các
bản dịch trước đây. Những điểm này chủ yếu được trình bày ở phần cước chú. Hy
vọng
sẽ đóng góp được phần nào lợi ích về tri kiến cho người đọc cũng như sự tu
tập
của các hành giả. Văn bản song ngữ Pali – Việt được ghi lại ở dạng Pdf và
có thể hạ tải ở đường dẫn sau: http://www.paliviet.info/VHoc/VHoc_PhDich.htm

Colombo,
ngày 19 tháng 09 năm 2010

Tỳ
khưu Indacanda
.

*****

KINH GIẢNG VỀ

NIỆM HƠI THỞ VÀO HƠI THỞ RA

(Phần Giới Thiệu)[1]

Tôi đã được nghe như vầy: Một thời
đức Thế Tôn ngụ tại Sāvatthi, ở khu vườn phía Đông, nơi lâu đài của Migāramātu,
cùng với nhiều vị Thinh Văn trưởng lão rất được biết tiếng như là đại đức
Sāriputta, đại đức Mahāmoggallāna, đại đức Mahākassapa, đại đức Mahākaccāyana,
đại đức Mahākotthita, đại đức Mahākappina, đại đức Mahācunda, đại đức
Anuruddha, đại đức Revata, đại đức Ānanda, cùng với nhiều vị Thinh Văn trưởng
lão
rất được biết tiếng khác nữa.

Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu
trưởng lãogiáo huấn, chỉ dạy các vị tân tỳ khưu. Một số tỳ khưu trưởng lãogiáo huấn, chỉ dạy mười tỳ khưu. Một số tỳ khưu trưởng lãogiáo huấn, chỉ dạy
hai mươi tỳ khưu. Một số tỳ khưu trưởng lãogiáo huấn, chỉ dạy ba mươi tỳ khưu.
Một số tỳ khưu trưởng lãogiáo huấn, chỉ dạy bốn mươi tỳ khưu. Và trong khi
được giáo huấn, được chỉ dạy bởi các vị tỳ khưu trưởng lão, các vị tân tỳ khưu
ấy nhận biết pháp đặc biệt cao quý khác so với trước đây.

Vào lúc bấy giờ, nhằm ngày Uposatha,
là ngày rằm, ngày lễ Pavāranā, vào đêm trăng tròn đầy, đức Thế Tôn ngồi ở ngoài
trời
, được hội chúng tỳ khưu vây quanh. Khi ấy, đức Thế Tôn, sau khi quan sáthội
chúng
tỳ khưu đang im lặng, đã bảo các tỳ khưu rằng: “Này các tỳ khưu, Ta được
hài lòng với lối thực hành này. Này các tỳ khưu, Ta có tâm hài lòng đối với lối
thực hành này. Này các tỳ khưu, vì thế, ở đây, các ngươi hãy ra sức tinh tấn
hơn nữa nhằm đạt được pháp chưa đạt được, nhằm chứng đắc pháp chưa được chứng
đắc
, nhằm chứng ngộ pháp chưa được chứng ngộ. Ta sẽ chờ đợi ở chính nơi đây,
tại Sāvatthi, cho đến ngày rằm Komudī, thuộc tháng thứ tư (của mùa mưa).”

Các tỳ khưu trong xứ sở đã nghe
rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn sẽ chờ đợi ở chính nơi đó, tại Sāvatthi, cho đến
ngày rằm Komudī, thuộc tháng thứ tư (của mùa mưa).” Và các tỳ khưu trong xứ sở
ấy quy tụ về Sāvatthi để chiêm ngưỡngđức Thế Tôn. Và các vị tỳ khưu trưởng lão
còn giáo huấn, chỉ dạy các tân tỳ khưu nhiều hơn nữa. Một số tỳ khưu trưởng lãogiáo huấn, chỉ dạy mười tỳ khưu. Một số tỳ khưu trưởng lãogiáo huấn, chỉ dạy
hai mươi tỳ khưu. Một số tỳ khưu trưởng lãogiáo huấn, chỉ dạy ba mươi tỳ khưu.
Một số tỳ khưu trưởng lãogiáo huấn, chỉ dạy bốn mươi tỳ khưu. Và trong khi
được giáo huấn, được chỉ dạy bởi các vị tỳ khưu trưởng lão, các vị tân tỳ khưu
ấy nhận biết pháp đặc biệt cao quý khác so với trước đây.

Vào lúc bấy giờ, nhằm ngày Uposatha,
là ngày rằm, ngày lễ Komudī, thuộc tháng thứ tư (của mùa mưa), vào đêm trăng
tròn đầy, đức Thế Tôn ngồi ở ngoài trời, được hội chúng tỳ khưu vây quanh. Khi
ấy, đức Thế Tôn, sau khi quan sáthội chúng tỳ khưu đang hoàn toànim lặng, đã
bảo các tỳ khưu rằng: “Này các tỳ khưu, tập thể này không có việc nói chuyện
nhảm. Này các tỳ khưu, tập thể này không còn việc nói chuyện nhảm, được thanh
tịnh
, đã vững vàngcốt lõi. Này các tỳ khưu, hội chúng tỳ khưu này là như
thế. Này các tỳ khưu, tập thể này là như thế. Tập thể như thế này đáng được
tiến cúng, đáng được hiến dâng, đáng được cúng dường, đáng được lễ bái, là nơi
để gieo trồng phước báu của thế gian không gì hơn được. Này các tỳ khưu, hội
chúng
tỳ khưu này là như thế. Này các tỳ khưu, tập thể này là như thế. Ở tập
thể như thế này, vật được bố thí ít trở thành nhiều, được bố thí nhiều thì trở
thành
nhiều hơn nữa. Này các tỳ khưu, hội chúng tỳ khưu này là như thế. Này các
tỳ khưu, tập thể này là như thế. Tập thể như thế này là khó gặp ở thế gian. Này
các tỳ khưu, hội chúng tỳ khưu này là như thế. Này các tỳ khưu, tập thể này là
như thế. Tập thể như thế này là xứng đáng đi nhiều do-tuần để yết kiến dầu với
vật thực đi đường ở vai.

Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu
này, có mặt những tỳ khưu là bậc A-la-hán, có các lậu hoặc đã cạn kiệt, đã được
hoàn mãn, có các việc cần làm đã làm, có các gánh nặng đã được đặt xuống, có
mục đích của bản thân đã được đạt đến, có các sự trói buộc ở hữu đã được tiêu
diệt
, có trí hiểu biết chân chánh, đã được giải thoát. Này các tỳ khưu, những
tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ
khưu này, có mặt những tỳ khưu có sự diệt tận năm hạ phần kiết sử, là hạng hóa
sanh
, có sự viên tịchNiết Bàn tại nơi ấy, từ thế giới ấy không có việc quay
trở lui. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này.
Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu có sự diệt tận
ba loại kiết sử, có sự giảm thiểu của luyến ái-sân hận-si mê, là bậc Nhất Lai,
sẽ đi đến thế gian này chỉ một lần rồi sẽ chấm dứt khổ đau. Này các tỳ khưu, những
tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ
khưu này, có mặt những tỳ khưu có sự diệt tận ba loại kiết sử, là bậc Nhập Lưu,
pháp không bị thối đọa, có sự tiến đến giác ngộ đã được chắc chắn. Này các
tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này.

Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu
này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyệntu tập về bốn sự
thiết lập niệm. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ
khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống
gắn bó với việc rèn luyệntu tập về bốn chánh tinh tấn. Này các tỳ khưu,
những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, những tỳ
khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ
khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyệntu tập về bốn
nền tảng của thần thông. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội
chúng
tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ
khưu sống gắn bó với việc rèn luyệntu tập về năm quyền. Này các tỳ khưu,
những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội
chúng
tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyệntu
tập
về năm lực. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ
khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống
gắn bó với việc rèn luyệntu tập về bảy chi phần đưa đến giác ngộ. Này các
tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu,
hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện
tu tập về Thánh Đạo tám chi phần. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt
hội chúng tỳ khưu này.

Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu
này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyệntu tập về từ. Này
các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ
khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn
luyện
tu tập về bi. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội
chúng
tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ
khưu sống gắn bó với việc rèn luyệntu tập về hỷ. Này các tỳ khưu, những tỳ
khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ
khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyệntu tập về xả.
Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các
tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn
luyện
tu tập về tử thi. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội
chúng
tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ
khưu sống gắn bó với việc rèn luyệntu tập về tưởng vô thường. Này các tỳ
khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này.

Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu
này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyệntu tập về niệm hơi
thở
vào hơi thở ra.[2] Này các
tỳ khưu, niệm hơi thở vào hơi thở ra được tu tập, được thực hànhthường xuyên
là có quả báu lớn, có lợi ích lớn. Này các tỳ khưu, niệm hơi thở vào hơi thở ra
được tu tập, được thực hànhthường xuyên khiến cho bốn sự thiết lập niệm[3] được hoàn
bị. Bốn sự thiết lập niệm được tu tập, được thực hànhthường xuyên khiến cho
bảy chi phần đưa đến giác ngộ[4] được hoàn
bị. Bảy chi phần đưa đến giác ngộ được tu tập, được thực hànhthường xuyên
khiến cho minh và giải thoát được hoàn bị.

(Tu tập niệm hơi thở vào hơi thở ra)

Và này các tỳ khưu, niệm hơi thở vào
hơi thở ra được tu tập như thế nào, được thực hànhthường xuyên như thế nào là
quả báu lớn, có lợi ích lớn? Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu đi đến khu
rừng, hoặc đi đến gốc cây, hoặc đi đến nơi thanh vắng, ngồi xuống, xếp chân thế
kiết già, giữ thân thẳng và thiết lập niệm luôn hiện diện. Có niệm vị ấy thở
ra
, có niệm vị ấy thở vào.

Hoặc trong khi thở ra dài, vị ấy nhận biết:[5] ‘Tôi thở ra dài.’[6]
Hoặc trong khi thở vào dài, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở vào dài.’
Hoặc trong khi thở ra ngắn, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở ra ngắn.’
Hoặc trong khi thở vào ngắn, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở vào ngắn.’
Vị ấy tập luyện:[7] ‘Có cảm giáctoàn thân,[8] tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giáctoàn thân, tôi sẽ thở vào;’[9]
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an tịnhsự tạo tác của thân, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an tịnhsự tạo tác của thân, tôi sẽ thở vào.’[10]
Vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác hỷ, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác hỷ, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác lạc, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác lạc, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác về sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác về sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an tịnhsự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an tịnhsự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm hân hoan, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm được thoát ra, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm được thoát ra, tôi sẽ thở vào.’
Vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát[11] về vô thường, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về vô thường, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về ly ái dục, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về ly ái dục, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về tịch diệt, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về tịch diệt, tôi sẽ thở vào;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về từ bỏ, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về từ bỏ, tôi sẽ thở vào.’

Này các tỳ khưu, niệm hơi thở vào
hơi thở ra được tu tậpnhư vầy, được thực hànhthường xuyênnhư vầy là có quả
báu
lớn, có lợi ích lớn.

(Bốn sự thiết lập niệm được hoàn bị)

Này các tỳ khưu, niệm hơi thở vào
hơi thở ra được tu tập như thế nào, được thực hànhthường xuyên như thế nào
khiến cho bốn sự thiết lập niệm được hoàn bị? Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO[12] vị tỳ
khưu trong khi thở ra dài nhận biết: ‘Tôi thở ra dài;’ hoặc trong khi thở vào
dài, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở vào dài;’ hoặc trong khi thở ra ngắn, vị ấy nhận
biết
: ‘Tôi thở ra ngắn;’ hoặc trong khi thở vào ngắn, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở
vào
ngắn;’ vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giáctoàn thân, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập
luyện: ‘Có cảm giáctoàn thân, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm
an tịnhsự tạo tác của thân, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an
tịnh
sự tạo tác của thân, tôi sẽ thở vào;’ này các tỳ khưu, VÀO LÚC ẤY vị tỳ
khưu sống có sự quan sát thân ở trên thân, có nhiệt tâm, có sự nhận biết
rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiềnthế gian.[13] Này các
tỳ khưu, ta nói như vậy về một thân khác nữa trong số các thân, tức là sự thở
ra
sự thở vào. Này các tỳ khưu, vì thế, ở đây, VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu sống có
sự quan sát thân ở trên thân, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm,
thì có thể chế ngự tham và ưu phiềnthế gian.

Này các tỳ
khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ khưu tập luyện: ‘Có cảm giác hỷ, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy
tập luyện: ‘Có cảm giác hỷ, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác lạc,
tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác lạc, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập
luyện: ‘Có cảm giácsự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có
cảm giácsự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm
an tịnhsự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an
tịnh
sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở vào;’ này các tỳ khưu, VÀO LÚC ẤY vị tỳ
khưu sống có sự quan sát thọ ở trên các thọ, có nhiệt tâm, có sự nhận biết
rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiềnthế gian. Này các tỳ khưu,
ta nói như vậy về một thọ khác nữa trong số các thọ, tức là sự chú tâmtốt đẹp
đối với sự thở ra sự thở vào. Này các tỳ khưu, vì thế, ở đây, VÀO LÚC ẤY, vị tỳ
khưu sống có sự quan sát thọ ở trên các thọ, có nhiệt tâm, có sự nhận biết
rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiềnthế gian.

Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ
khưu tập luyện: ‘Có cảm giác tâm, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác
tâm, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm hân hoan, tôi sẽ
thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm hân hoan, tôi sẽ thở vào;’ vị
ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập
luyện: ‘Trong khi làm cho tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện:
‘Trong khi làm cho tâm được giải thoát, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong
khi làm cho tâm được giải thoát, tôi sẽ thở vào;’ này các tỳ khưu, VÀO LÚC ẤY
vị tỳ khưu sống có sự quan sát tâm ở trên tâm, có nhiệt tâm, có sự nhận biết
rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiềnthế gian. Này các tỳ khưu,
đối với kẻ có niệm bị quên lãng, không có sự nhận biết rõ rệt, ta không nói về
sự tu tập niệm hơi thở vào hơi thở ra.[14] Này các tỳ khưu, vì thế, ở đây, VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu sống
có sự quan sát tâm ở trên tâm, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm,
thì có thể chế ngự tham và ưu phiềnthế gian.

Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ
khưu tập luyện: ‘Có sự quan sát về vô thường, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện:
‘Có sự quan sát về vô thường, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát
về lìa ái dục, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về lìa ái dục,
tôi sẽ thở vào,’ vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về diệt tận, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về diệt tận, tôi sẽ thở vào,’ vị ấy tập. ‘Có
sự quan sát về từ bỏ, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về từ
bỏ
, tôi sẽ thở vào;’ này các tỳ khưu, VÀO LÚC ẤY vị tỳ khưu sống có sự quan sát
pháp ở trên các pháp, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm, thì có thể
chế
ngự tham và ưu phiềnthế gian. Vị ấy sau khi nhìn thấy sự dứt bỏ tham và
ưu phiền bằng tuệ là người có trạng thái xả tốt đẹp.[15] Này các tỳ khưu, vì thế, ở đây, VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu sống
có sự quan sát pháp ở trên các pháp, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có
niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiềnthế gian. Này các tỳ khưu, niệm hơi
thở
vào hơi thở ra được tu tập như thế, được thực hànhthường xuyên như thế
khiến cho bốn sự thiết lập niệm được hoàn bị.

(Bảy chi phần đưa đến giác ngộ được
hoàn bị)

Này các tỳ khưu, bốn sự thiết lập
niệm được tu tập như thế nào, được thực hànhthường xuyên như thế nào khiến cho
bảy chi phần đưa đến giác ngộ được hoàn bị? Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ
khưu sống có sự quan sát thân ở trên thân, có nhiệt tâm, có sự nhận biết
rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiềnthế gian, VÀO LÚC ẤY niệm
của vị ấy được thiết lập, không bị quên lãng. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO niệm
của vị tỳ khưu được thiết lập, không bị quên lãng, VÀO LÚC ẤYniệm giác chi
được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY vị tỳ khưu tu tậpniệm giác chi.
VÀO LÚC ẤY, niệm giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Trong khi an trú với niệm như thế,
vị ấy suy xét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứutoàn diện về pháp ấy bằng tuệ.
Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ khưu, trong khi an trú với niệm như thế, suy
xét
, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứutoàn diện về pháp ấy bằng tuệ, VÀO LÚC ẤYtrạch pháp giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu
tập
trạch pháp giác chi. VÀO LÚC ẤY, trạch pháp giác chi của vị tỳ khưu đi đến
sự hoàn bị của việc tu tập.

Đối với vị ấy, trong khi suy xét,
khảo sát, đạt đến sự nghiên cứutoàn diện về pháp ấy bằng tuệ, thì sự tinh tấn
được khởi sự, không bị trì trệ. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳ
khưu, trong khi suy xét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứutoàn diện về pháp ấy
bằng tuệ, mà sự tinh tấn được khởi sự, không bị trì trệ, VÀO LÚC ẤYtinh tấn
giác chi
được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tậptinh
tấn giác chi
. VÀO LÚC ẤY, tinh tấn giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị
của việc tu tập.

Đối với vị có sự tinh tấn đã được
khởi sự, hỷ không liên hệvật chất khởi lên. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO hỷ
không liên hệvật chất khởi lên đối với vị tỳ khưu có sự tinh tấn đã được khởi
sự, VÀO LÚC ẤYhỷ giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ
khưu tu tậphỷ giác chi. VÀO LÚC ẤY, hỷ giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn
bị của việc tu tập.

Đối với vị có tâm hỷ, thì thân cũng
an tịnh, tâm cũng an tịnh. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳ khưu có
tâm hỷ, thân cũng an tịnh, tâm cũng an tịnh, VÀO LÚC ẤY, tịnh giác chi được
khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tậptịnh giác chi. VÀO
LÚC ẤY, tịnh giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Đối với vị có thân được an tịnh, có
sự an lạc, thì tâm được định. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳ khưu
có thân được an tịnh, có sự an lạc, tâm được định, VÀO LÚC ẤY, định giác chi
được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tậpđịnh giác chi.
VÀO LÚC ẤY, định giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Vị ấy, đối với tâm đã được định tĩnh
như thế, là người có trạng thái xả tốt đẹp.[16] Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ khưu là người có trạng
thái
xả tốt đẹp đối với tâm đã được định tĩnh như thế, VÀO LÚC ẤY, xả giác chi
được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tậpxả giác chi. VÀO
LÚC ẤY, xả giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ
khưu sống có sự quan sát thọ ở trên các thọ —(như trên)— tâm ở trên tâm —(như
trên)— pháp ở trên các pháp, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm, thì
thể chế ngự tham và ưu phiềnthế gian, VÀO LÚC ẤY niệm của vị này là đã
được thiết lập, không bị quên lãng. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO niệm của vị tỳ
khưu là đã được thiết lập, không bị quên lãng, VÀO LÚC ẤYniệm giác chi được
khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY vị tỳ khưu tu tậpniệm giác chi. VÀO LÚC
ẤY
, niệm giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Trong khi an trú với niệm như thế,
vị ấy suy xét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứutoàn diện về pháp ấy bằng tuệ.
Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ khưu, trong khi an trú với niệm như thế, suy
xét
, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứutoàn diện về pháp ấy bằng tuệ, VÀO LÚC ẤYtrạch pháp giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu
tập
trạch pháp giác chi. VÀO LÚC ẤY, trạch pháp giác chi của vị tỳ khưu đi đến
sự hoàn bị của việc tu tập.

Đối với vị ấy, trong khi suy xét,
khảo sát, đạt đến sự nghiên cứutoàn diện về pháp ấy bằng tuệ, thì sự tinh tấn
được khởi sự, không bị trì trệ. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳ
khưu, trong khi suy xét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứutoàn diện về pháp ấy
bằng tuệ, mà sự tinh tấn được khởi sự, không bị trì trệ, VÀO LÚC ẤYtinh tấn
giác chi
được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tậptinh
tấn giác chi
. VÀO LÚC ẤY, tinh tấn giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị
của việc tu tập.

Đối với vị có sự tinh tấn đã được
khởi sự, hỷ không liên hệvật chất khởi lên. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO hỷ
không liên hệvật chất khởi lên đối với vị tỳ khưu có sự tinh tấn đã được khởi
sự, VÀO LÚC ẤYhỷ giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ
khưu tu tậphỷ giác chi. VÀO LÚC ẤY, hỷ giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn
bị của việc tu tập.

Đối với vị có tâm hỷ, thì thân cũng
an tịnh, tâm cũng an tịnh. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳ khưu có
tâm hỷ, thân cũng an tịnh, tâm cũng an tịnh, VÀO LÚC ẤY, tịnh giác chi được
khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tậptịnh giác chi. VÀO
LÚC ẤY, tịnh giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Đối với vị có thân được an tịnh, có
sự an lạc, thì tâm được định. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳ khưu
có thân được an tịnh, có sự an lạc, tâm được định, VÀO LÚC ẤY, định giác chi
được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tậpđịnh giác chi.
VÀO LÚC ẤY, định giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Vị ấy, đối với tâm đã được định tĩnh
như thế, là người có trạng thái xả tốt đẹp. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ
khưu là người có trạng thái xả tốt đẹp đối với tâm đã được định tĩnh như thế,
VÀO LÚC ẤY, xả giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu
tu tậpxả giác chi. VÀO LÚC ẤY, xả giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị
của việc tu tập.

Này các tỳ khưu, bốn sự thiết lập
niệm được tu tập như thế, được thực hànhthường xuyên như thế khiến cho bảy chi
phần
đưa đến giác ngộ được hoàn bị.

(Minh và giải thoát được hoàn bị)

Này các tỳ khưu, bảy chi phần đưa
đến giác ngộ được tu tập như thế nào, được thực hànhthường xuyên như thế nào
khiến cho minh và giải thoát được hoàn bị? Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu tu
tập
niệm giác chi nương tựa ở sự tách ly, nương tựa ở sự lìa ái dục, nương tựa
ở sự tịch diệt, có đích đến là sự buông bỏ;[17] tu tậptrạch pháp giác chi nương tựa ở sự tách ly, nương
tựa ở sự lìa ái dục, nương tựa ở sự tịch diệt, có đích đến là sự buông bỏ; tu
tập
tinh tấn giác chi nương tựa ở sự tách ly, nương tựa ở sự lìa ái dục, nương
tựa ở sự tịch diệt, có đích đến là sự buông bỏ; tu tậphỷ giác chi nương tựa ở
sự tách ly, nương tựa ở sự lìa ái dục, nương tựa ở sự tịch diệt, có đích đến là
sự buông bỏ; tu tậptịnh giác chi nương tựa ở sự tách ly, nương tựa ở sự lìa ái
dục
, nương tựa ở sự tịch diệt, có đích đến là sự buông bỏ; tu tậpđịnh giác chi
nương tựa ở sự tách ly, nương tựa ở sự lìa ái dục, nương tựa ở sự tịch diệt, có
đích đến là sự buông bỏ; tu tậpxả giác chi nương tựa ở sự tách ly, nương tựa ở
sự lìa ái dục, nương tựa ở sự tịch diệt, có đích đến là sự buông bỏ.

Bảy chi phần đưa đến giác ngộ được
tu tập như thế, được thực hànhthường xuyên như thế khiến cho minh và giải
thoát
được hoàn bị.

Đức Thế Tôn đã nói điều này. Được
hoan hỷ, các vị tỳ khưu ấy thỏa thích lời dạy của đức Thế Tôn.

 


[1] Phần
trong ngoặc đơn () không có ở Chánh Kinh, được thêm vào để tiện việc theo dõi
(ND).

[2] ānāpānasati = āna+apāna+sati, āna là hơi thở vào, apāna là hơi thở ra, sati là
niệm, sự ghi nhớ.

[3] Từ thông
dụng
là ‘tứ niệm xứ.’

[4] Từ thông
dụng
là ‘bảy giác chi.’

[5] Chú ý đến
từ “hoặc” (từ Pali là ‘vā’) ở đầu câu và động từ “nhận biết” (pajānāti) trong
nhóm 4 câu này. Có thể hiều là ở pháp thiền này, hành giả không điều khiển hơi
thở
theo ý mình mà để hơi thởtự nhiên rồi chú tâmnhận biết sự diễn biến của
hơi thở khi dài khi ngắn khác nhau.

[6] assasanto
và assasāmi là các biến thể của động từ assasati. Đa số các từ điển và các bản
dịch tiếng Anh đều ghi nghĩa cho động từ này là “thở vào,” nên ở từng đôi như
vậy trình bày “thở vào” trước rồi “thở ra” sau. Còn ở bản dịch này, chúng tôighi nhận nghĩa của động từ assasati là “thở ra” nên trình bày “thở ra” trước
rồi “thở vào” sau. Sự chọn lựa này được căn cứ vào 2 chứng cớ:

– Ở Chú Giải Tạng Luật, ngài
Buddhaghosa giải thích rằng: “Assāso ti bahi nikkhamanavāto. Passāso ti anto
pavisanavāto = Hơi thở ra là gió đi ra bên ngoài. Hơi thở vào là gió đi vào bên
trong” (Vinaya-atthakathā tập 2, trang 408, theo bản in của Pali Text Society –
PTS).

– Tự Điển Pali – English Dictionary
của PTS cũng ghi assasati là thở ra (trang 90), passasati là thở vào (trang
447).

Nếu là như vậy, phải chăngphương
pháp
Ānāpānassati hay “Niệm hơi thở” nên được trình bày và tu tập theo thứ tự
hơi thở ra trước rồi mới đến hơi thở vào? Việc thử nghiệm xin dành cho các hành
giả
, ở đây chúng tôi chỉ trình bày theo sự nghiên cứu về văn tự.

[7] – Trong
bốn mệnh đề đầu, động từ được sử dụng là pajānāti (nhận biết) và có liên từ
“vā” (hay là, hoặc là) xen vào giữa. Từ mệnh đề thứ năm trở đi, động từ là
sikkhati (thực tập, thực hành, học tập). Theo thiển ý của cá nhân thì đến giai
đoạn này, hành giả đã có sự tiến triển trong sự tu tậphơi thở và các chi thiền
bắt đầu sanh khởi.

[8] – Ngài
Buddhaghosa giải thích là sabbakāya (toàn thân) nên được hiểu là phần đầu, phần
giữa, và phần cuối của toàn bộhơi thở ra mỗi khi thở ra, hoặc của toàn bộhơi
thở
vào mỗi khi thở vào (Vinaya-atthakathā tập 2, trang 411, theo bản in của
PTS).

– Ngài Mahābhidhāna, ở tập Chú Giải
Saddhammappakāsinī, ghi rằng: ‘Trong khi làm cho được biết rõ, trong khi làm
cho rõ rệt phần đầu-giữa-cuối của toàn bộhơi thở vào, tôi sẽ thở vào’ vị ấy
tập (Patisambhidāmagga-atthakathā tập 2, trang 491, theo bản in của PTS).

[9] Ở nhóm 2
câu này, cụm từ sabbakāyapatisamvedī (có cảm giáctoàn thân) nên được hiểu là
‘danh tính từ’ bổ nghĩa cho chủ từ là vị tỳ khưu, còn động từ chính (finite
verb) vẫn là thở rathở vào.

[10] Tương tợ
như trên, ở nhóm 2 câu này, từ passambhayam (trong khi làm an tịnh) nên được
hiểu là ‘phân từ hiện tại, thể liên tiến (progressive)’ bổ nghĩa cho chủ từ là
vị tỳ khưu, còn động từ chính (finite verb) vẫn là thở rathở vào. Cách giải
thích
này được áp dụng tương tợ cho các nhóm 2 câu ở bên dưới.

[11] anupassati (anu + passati): passati có nghĩa là ‘nhìn, xem, coi,’ còn anu là
‘dõi theo, lần theo’ nên từ anupassati được ghi nghĩa là ‘quan sát’ thay vì
‘quán’ hay ‘tùy quán,’ để dễ hiểu.

[12] Các mệnh
đề điều kiện về thời gian “VÀO LÚC NÀO” và “VÀO LÚC ẤY” được viết dưới dạng in
hoa để tiện phân biệt.

[13] Trong
câu: “vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở trên thân, có nhiệt tâm, có sự nhận
biết
rõ rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian” thì hai
động từ “sống” (viharati) và “có thể chế ngự” (vineyya) động từ chính (finite
verb), còn các cụm từ còn lại bổ nghĩa cho chủ từ là vị tỳ khưu.

[14] Các hành
giả
tu tập về hơi thở nên chú ý điều kiện này.

[15] ajjhupekkhitā (người có trạng thái xả) là trường hợp tương tợ như các từ gantu,
sotu, netu, vattu, jetu, v.v…

[16] Trong
trường hợp này “tâm đã được định tĩnh” là túc từ, là đối tượng của danh động từ
ajjhupekkhitā (người có trạng thái xả), nghĩa là hành giảtrạng thái xả đối
với cái “tâm đã được định tĩnh.” Cấu trúc Pali ở câu này tương đốiphức tạp về
mặt văn phạm.

[17] bhāveti
có nghĩa là “làm cho hiện hữu, tu tập, phát triển” là động từ chính (finite
verb), túc từ là “niệm giác chi” và niệm giác chi này được đặt nền tảng ở sự
tách ly, ở sự lìa ái dục, ở sự tịch diệt, và có đích đến là sự buông bỏ.