TẬP 01, 02, 03, 04, 05, 06, 07 & 08
Việt dịch: HÒA THƯỢNGTHÍCH TRÍ NGHIÊM
Chiết giải: LÃO CƯ SĨTHIỆN BỬU
Quảng Đức Tùng Thư xuất bản
Thư ngỏ:
(của cư sĩ Thiện Bửu)
Thấm thoát đã 5 năm trôi qua kể từ khi đăng Tổng luận Đại Bát Nhã (phiên bản I) bắt đầu từ Tháng Tư Năm 2020, lần đầu tiên xuất hiện trên Trang Nhà Quảng Đức. Khi ấy, nạn Civid bắt đầu hoành hành dữ dội, Thiện Bửu lúc đó đã 80 tuổi đời, mới vừa hoàn thành thiên Tổng Luận sau 10 khó nhọc vừa học vừa chiết giải Kinh Đại Bát Nhã.
1. Lo rằng nếu mắc phải dịch này thì công trình xiển dương Đại Bát Nhã chẳng khác nào “dã tràng xe cát bể Đông”. Liền gởi thư kèm theo ebook nhờ Thầy TT Thích Nguyên Tạng đăng lên Quangduc.com. Sau hai ngày duyệt qua Thầy quyết định tải Tổng luận trên Trang Nhà Quảng Đức. Thầy nhờ hai cộng sự viên đắc lực trong Ban Biên TậpQuảng Đức, 1. là Cư sĩ Thanh Phi duyệt soát và sửa chánh tả và 2. là Tâm Từ, một Phật tửthuần thục, là kỹ sư thiết kế trên mạng. Thiện Bửu củ soát lần chót phẩm nào, phần nào liền gởi cho Thanh Phi xem. Sau khi xem và sửa xong, Thanh Phi chuyển cho Tâm Từ đăng lên mạng ngay. Tròn một năm làm việc vất vả mới hoàn tất phiên bản I vào Tháng Tư Năm 2021.
2. Vì chiết giải 16 pháp hội tổng cộng 600 quyển, chiếm 4/5 hệ Bát Nhã, hơn 5 triệu chữ. Kinh vừa dài vừa khó. Khi củ soát lại phiên bản I, Thiện Bửu thấy có nhiều thiếu sót. Nên bắt đầu viết lại và cập nhật Hội thứ hai với bộ Đại Trí Độ Luận do Bồ Tát Long Thọbiên soạn. Công việc tiến hành đến cuối năm 2021, Thầy Nguyên Tạngdự định về Việt Nam làm giỗ cho HT Thích Trí Nghiêm với ý nguyện là in sách để làm rạng rỡcông lao dịch thuật Đại Bát Nhã từ Hán sang Việt do HT Trí Nghiệm thực hiện ròng rã trong 8 năm.
Thầy nhờ Thiện Bửu thiết kế (layout) Tổng luận Đại Bát Nhã phiên bản I để in thành sách. Phiên bản I quá dài, gần 6.000 trang khổ 6X8, Thiện Bửu phải viết lại với sự cập nhật Hội thứ hai và chỉ hoàn tất tổng cộng 7 Tập (từ Tập 1 đến Tập 7, trừ Tập thứ 8). Đến khi Thầy Nguyên Tạng về Việt Nam được hơn 2 tuần thì Thiện Bửu mới hoàn tất xong Tập 8 và gởi về Việt Nam cho Thầy in 25 bộ Tổng luận phiên bản II. Kết quả Tổng luận Đại Bát Nhãphiên bản II ra đời vào Tháng Tư Năm 2022, thay thế phiên bản I trên Trang Nhà Quảng Đức mà độc giả đã hơn 34.800 lần nhập vào đọc tụng cho tới hôm nay. Đây là điều khích lệ không ít đối với Thiện Bửu. Nhưng Thiện Bửu không hảnh diện điều này mà trái lại rất ái ngại! Tại sao? Vì cả hai phiên bản ra đời vội vã, chưa đạt chỉ tiêu mong muốn. Dĩ nhiên không tránh khỏi sơ suất.
Sự khác biệt giữa phiên bản I và phiên bản II là phiên bản II viết đầy đủ căn bản hơn với sự cập nhật thêm bộ Đại Trí Độ Luận của Bồ Tát Long Thọ đã nâng trình độ Tổng luận lên một bậc cao hơn. Vì Bồ Tát Long Thọ là vị La Hán thứ XIV làm chủ tăng đoàn thay thế đức Thế Tônlãnh đạo và phát triển Tăng đoàn, là bậc thực tu thực chứng, một bậc Long tượng, một cây cổ thụam tườngPhật học cùng bối cảnh lịch sửPhật học. Sự cập nhật này giúp ích rất nhiều trong việc học hỏithọ trì không những đối với 5 Hội đầu chiếm hết 565 trang trong số 600 trang Đại Bát Nhã mà còn giúp ích rất nhiều trong việc tụng đọc thọ trìtoàn bộ Đại Bát Nhã và các giáo phápĐại thừa khác!
Tuy nhiên, Tổng luận phiên bản II giới thiệu trong phần mục lục nói trên vẫn còn thiếu sót, chưa nói lên hết những ảo diệu của Tánh không với những nguyên lý chỉ đạo của nó!
3. Rồi từ Tháng Tư Năm 2022 đến nay, Thiện Bửu đóng cửatu hành, cứ 4 tháng đọc lại sửa chữamột lần, một năm ba lần cho đến nay tổng cộng chín lần. Đây là lần cuối cùng, không còn lần cuối cùng nào khác trong kiếp này nữa. Tuổi thọ đã ngoài 85, người đã mòn mõi lắm rồi. Tất cả khí lực bình sanh đã tận dụng để đột phá trong suốt ba năm cốt hoàn thànhhạnh nguyệnhoàn tất Tổng luận để khỏi hổ thẹn với tiền nhân.
Trước đây Thiện Bửu thấy không nhưng chẳng thấy chẳng không, chưa thấy tận không, vô tận không. Hiểu được các biểu thị hay pháp nghĩa hiển hiện của Bát Nhã Ba la mật là một chuyện, thâm nhập lại là một chuyện khác nữa. Phải tu tập phụng trì 6 pháp Ba la mật, 18 pháp không, thập nhị chân như trong nhiều đời nhiều kiếp. Kinh dạy rằng phải nhập được cáí vô tận không, vô tận như, cái bình đẳng và thanh tịnhmênh mông như hư không mà Hội thứ X có tên “Lý Thú Bát Nhã Phần”, xem các từ này như các “đại luân tự”, gọi là trí ấn (thân ấn, ngữ ấn, tâm ấn, pháp ấn) và trí tạng(thắng tạng, Như Lai tạng, kim cương tạng, chánh pháp tạng, diệu pháp tạng) trong Bí mật tạngba đời của Như Lai. Thấy biết như vậy rồi tu thì có cơ hội. Biết rồi tu hành, không biết chẳng khác nào người mù sờ voi thôi. Đó là những ảo diệu được trình bày trong phiên bản III này.Đó cũng là diễn trình của Tổng luận Đại Bát Nhã mà Thiện Bửu tụng trìquán tưởngtrong suốt 15 năm qua gặt hái được khi tu học và chiết giải về luận này.
Tổng luận Đại Bát Nhã phiên bản III hoàn thành vào mùa Xuân năm 2025, đang in tại Việt Nam chỉ vỏn vẹn có 25 bộ phát hành khắp thế giới. Vì vậy, để phục vụđộc giảxa gần, Thiện Bửu đã nhờ các Websites Phật học lớn nhỏ đăng tải Tổng luận Đại Bát Nhã phiên bản III mà quý độc giả có dịp đọc tụng hôm nay.
Đây là phiên bản chính thức cũng là phiên bản cuối cùng của Tổng luận Đại Bát Nhã, được nâng lên một trình độ khác với hai phiên bản trước cả hình thức lẫn nội dung. Chúc chư vị hưởng nhiều pháp lạc!
Nam MôBát Nhã Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát.
San Jose, CA, cập nhật xong (phiên bản III) vào ngày 01-04-2025.
Cư sĩThiện Bửu.
Kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển, hơn 5 triệu chữ, là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh các của Phật GiáoĐại Thừa do Đức Thế Tônthuyết giảng trong 22 năm. Bài Bát Nhã Tâm Kinh mà chúng ta thường thọ trìhằng ngày tại Việt Nam là do Pháp SưHuyền Trang dịch từ Phạn sang Hán, vốn là cốt tủy rút ra từ Bộ Đại Bát Nhã 600 quyển trên. Bộ Kinh đã truyền đến quê hương Việt Nam vào năm 1958 và được Trưởng LãoHòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003) phát tâm dịch sang tiếng Việt. Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm đã phiên dịchbộ kinh này ròng rã suốt 8 năm, từ 1972 đến 1980 mới hoàn tất. Và theo lời Hòa Thượng Thích Đỗng Minh, Hòa ThượngTrí Nghiêm đã dịch theo bản Biệt Hành, gồm 24 tập, mỗi tập gần 1.000 trang với 25 quyển nhỏ, và cũng đóng thành 24 tập như nguyên bản chữ Hán.
Người viết có duyên làm thị giả cho HT Trí Nghiêm và Hòa Thượng Thiện Siêu trong 3 mùa An CưKiết Hạ tại Chùa Hải Đức, Nha Trang từ 1981 đến 1983. Đầu năm 1998 người viết được bào huynh là Thượng TọaThích Tâm Phương bảo lãnh sang Úc định cư, khi nghe Ôn Trí Nghiêm đau nặng, đã về thăm Ôn đang nằm bệnh tại Chùa Tỉnh Hội Long Sơn sau mùa An Cư năm 2002. Đứng bên giường bệnh của Ngài, người viết đã phát nguyện sẽ đưa toàn bộ bản dịch của Ngài vào mạng lưới điện toán toàn cầu, qua trang nhà quangduc.com, để cúng dườngmười phươngPhật tử gần xa, đồng thời cũng để hồi hướng công đức cho Ôn. Sau khi về lại Úc, chúng tôi đã viết một thông báo ngắn cần gấp 24 người phát tâm đánh máy 24 tập Kinh Bát Nhã (bản in năm 1998), ngay lập tức có 24 Phật tử khắp nơi trên thế giới từ Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Hoa Kỳ, Âu Châu và Úc Châu phát tâm nhận mỗi người một tập để đánh máy, và đây là bản kinh Đại Bát Nhã tiếng Việt đầu tiên, đã online trước lễ Tiểu Tường của Ôn Trí Nghiêm vào ngày 13-01-2004.
10 năm sau khi online vào trang nhà Quảng Đức, Bộ Kinh Đại Bát Nhã này đã được Cư SĩChánh Trí Khưu Văn Nghĩa, vốn là một phi công tác chiến trước năm 1975, định cư tại Melbourne, Úc Châu từ năm 1982, đã phát tâm diễn đọc trọn bộ kinh này ròng rã 2 năm và 600 files mp3 cũng đã online đầy đủ vào trang nhà Quảng Đức để cống hiếnđộc giả gần xa.
Trong lúc đang lo lắng và bối rốiđối phó với cơn đại dịch Vũ Hán Corona Virus, thì đầu tháng 4 năm 2020 này, một niềm vui bất ngờ đã đến với Ban Biên Tập trang nhà Quảng Đức, chúng tôi đã nhận được e-book, sách điện tử “Tổng Luận Kinh Đại Bát Nhã” gồm 4000 trang, do chính tác giả là Lão Cư Sĩ Thiện Bửu Tô Hoàn Mai gởi tặng từ San Jose, miền Bắc California, Hoa Kỳ.
Phải thú thật rằng bản thânchúng tôi rất hoan hỷ, vui mừngxen lẫn niềm kính phục vô biên đối với tác giảCư Sĩ Thiện Bửu, vì bác đã bỏ ra 10 năm trời ròng rã để đọc và viết luận bản này, có thể nói đây là bản sớ giải đồ sộ thứ hai về Kinh Đại Bát Nhã, theo sauĐại Trí Độ Luận, bản sớ giải Kinh Đại Bát Nhã của Bồ Tát Long Thọ, ở Việt Namhiện có 2 bản dịch tiếng Việt, một của Hòa Thượng Thiện Siêu và một của Sư BàDiệu Không, cả hai phiên bản này đều có lưu trữ trên trang Quảng Đức.
Cư Sĩ Thiện Bửu, thế danh: Tô Hoàn Mai, sanh ngày 24/02/1940 (Canh Thìn) tại làng Bình Trước, quận Châu Thành, tỉnh Biên Hòa, trong gia đình có 6 anh chị xem, Thân phụ là cụ ông Tô Văn Trận (chết trong cuộc chiến chống Pháp), Thân mẫu là cụ bà Huỳnh Thị Giác, pháp danh Ngọc Giác (mãn phần năm 1977).
Cư Sĩ Thiện Bửu mồ côi Cha lúc 10 tuổi, ông sống với Mẹ cùng chị, một em gái và ba em trai, hết sứcnghèo khổ, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Trong thời gian từ 8 tuổi đến 13 tuổi ông sống lang thang, nay đây mai đó. Mẹ nuôi không nổi phải gởi cho người cậu sống ở miền Trung vài năm. Sau đó lại gởi cho chú thứ Bảy tại Phú Nhuận, Gia định, Sài Gòn hơn 1 năm, có khi phải gởi cho chú thứ Sáu hay Cô thứ Năm tại Biên Hòa vài ba tháng. Cuộc đờihết sức lẻ loi. Đến khi mẹ làm ăn vững chãi đôi chút mới gom về sống chung trong một xóm ga (xe lửa) nghèo nàn tại Biên Hòa. Năm 13 tuổi, ông có duyên lành quy y Tam Bảo với Ngài Minh Đăng Quang, Tổ Sư của phái Khất SĩViệt Nam và được Tổ sưban chopháp danh là Thiện Bửu.
Cư Sĩ Thiện Bửu từng theo học trường Trung Học Pétrus-Ký Sài gòn, rồi Đại học Luật khoa Sài gòn. Sau khi tốt nghiệp luật khoa xong thì xin tập sự luật sư. Đến năm 1968 thì bị động viên. Ra trường sĩ quan trừ bị Thủ đức, vì có văn hóa cao, nên được đưa về Đại học Chiến Tranh Chính Trị Đà lạt. Ở đó ông được bổ nhiệm làm Giảng viên môn Quân pháp kiêm Trưởng khoa Luật học và Kinh tế của Đại học này.
Ông có duyên kết hôn với bà Nguyễn Thị Gia Hiển, pháp danh: Phương Nhật, lúc đó đã ngoài 30 tuổi. Vợ ông lại là con của một gia đìnhdanh giá, cha vợ là Tổng lãnh sự Việt Nam tại Miến Điện, sau làm Sứ thần Việt Nam tại Nam Hàn.
Chức vụ cuối cùng của ông năm 1975 là Giám đốc Nha Huấn nghệ Bộ Lao động, sau đó ông bị đưa ra Bắc Thái, Thái nguyên, miền Bắc, tù cải tạo 3 năm thì được tha về sớm thay vì phải cải tạo 10 năm như những người giữ chức vụ tương đương, vì có người thân giúp.
Khi được thả tự do, ông liền cùng vợ và đứa con trai vượt biển sang Mã Lai. Ở đó hơn 5 tháng thì được bảo lãnh sang Hoa kỳ vào tháng 5/1979. Để lập lại cuộc đời, ông phải cấp tốchọc nghề điện tử tại Silicon Valey, rồi làm Research về hardwares cho hãng Racal Vadic và Racal Milgo của UK được 13 năm, hãng này dời qua Florida, ông chuyển sang làm việc 13 năm nữa cho hãng Lucent của Hoa kỳ, tổng cộng 26 năm, đến năm 2004 thì về hưu.
Từ ngày về hưu đến nay, ông không rời kinh Phật, mỗi ngày học Phật từ 4 đến 6 tiếng không hề lơi lỏng. Tự học, tự nghiên cứu nhưng nhờ có chút kiến thức và cũng có duyên với cửa Phật nên đi đúng đường. Ông đã thỉnh được Bộ Phật họcPhổ Thông của HT Thích Thiện Hoa, làm tóm tắttoàn bộ, học trọn 1 năm, nắm vững các điểm căn bản của giáo lý. Ông lập bàn thờ đặt bộ Phật HọcPhổ Thông cùng bộ tóm tắt của mình với hoa quảcúng dường HT Thích Thiện Hoa, để tạ ơnhóa độ cho bản thân ông.
Trong bộ Phật HọcPhổ Thông, có kinh Bát nhã Ba la mật, ông đã đọc tới đâu thông suốt tới đó. Bỗng nhiên, ông nhớ đến câu nói của HT Thiện Hoa là trong Phật đạo có nhiều tông phái, có các hệ khác nhau, nếu căn cơ của mình hợp với pháp môn nào thì nên tu tậppháp môn đó thì dễ tiến hơn.
Ông tự nghĩ mình thiên về Thiền và Hệ tư tưởngBát Nhã. Rồi từ đó đến nay đọc nhiều sách thiền và 41 bộ kinh trong Hệ Bát Nhã. May mắn là ông đã sưu tập gần như hầu hết sự nghiệpvăn chươngPhật học của Thiền sư người Nhật Bản là D.T. Suzuki. Những quyển khảo luận của Ngài là những quyển sách gối đầu của Lão Cư Sĩ Thiện Bửu.
Ông tâm sự rằng, chính nhờ những vốn liếng giáo lý này mà khi viết thiên Tổng Luận Đại Bát nhã Ba la mật, những tư tưởng trong ấy nhiều khi không biết là của Thiền sư Suzuki hay của chính ông. Dường như những món ăn tinh thần ấy đã trở thànhmáu mủ trong tự thể của chính ông, nhập tâm ông tự lúc nào chính ông không hề biết.
Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dành 10 năm lao nhọc, vừa học vừa viết kinh này để xiển dương tư tưởngBát Nhã theo tinh thầntruyền bá và lưu thông. Ông đã khiêm tốn tự nhủ rằng không biết những gì mình viết có phù hợp với tinh thần của bộ Đại Bát nhã Ba la mật hay không, nhưng chúng tôi cho rằng việc làm của Lão Cư Sĩ là việc cần làm và thiết thực hữu ích, ông đã giúp tóm tắtý nghĩa và lược giải những chỗ chính yếu của Kinh. Xin tán tháncông đức của lão cư sĩ đã đặt viên đá đầu tiên, để khuyến khích cho những hành giả khác cùng phát tâmxây dựngnền móng và lâu đài Bát nhã Ba la mật trong hành trìnhgiác ngộ và giải thoát, mà Đức Thế Tôn đã vạch ra từ 26 thế kỷ về trước.
Được biết Lão Cư Sĩ Thiện Bửu khởi sự viết thiên khảo luận Đại Bát nhã Ba la mật lúc 70 tuổi và hoàn tất lúc 80 tuổi ngay lúc mùa đại dịch Vũ Hán tấn công nước Mỹ, khiến cho trên 32.463.649 người nhiễm bệnh và hơn 577.464 người Mỹ tử vong, tính đến Ngày 3/05/ 2021.
Ông đã nhanh chóng gởi tặng phiên bản điện tử này cho Trang Nhà Quảng Đứcphổ biến trước khi ông về cõi Phật, vì ông lo sợ khi vô thường đến mà công trình này còn nằm yên trong computer thì quả thật là “Dã tràng xe cát biển đông”.
Để cho luận bản hoàn chỉnh hơn và nhanh chóng được phổ biến, chúng tôi đã nhờ Đạo hữu Thanh Phi đọc và sửa lỗi chính tả, chương nào xong thì gởi qua email cho Đạo HữuTâm Từ online ngay vào Trang nhà để vừa cống hiến cho bạn đọc và cũng để tạo niềm vui tuổi già của tác giả, và công việc tiếp theo, Đạo hữu Quảng Tịnh và Hoàng Lan sẽ phát tâm diễn đọc trọn bộ sách này vào audio-mp3 để cống hiến cho quý thính giả gần xa.
Xin thành tâmtán tháncông đức Lão Cư Sĩ Thiện Bửu cùng người bạn đời của bác là Cư Sĩ Phương Nhật Nguyễn Thị Gia Hiển đã hộ trì cho tác giả hơn 10 năm qua để ông hoàn thànhsứ mạng khó khăn này. Xin cảm tạ quý Đạo hữu Thanh Phi, Tâm Từ, Quảng Tịnh và Hoàng Lan đã đóng góp công sức và thời gian, mỗi người mỗi việc khác nhau, để giúp phổ biếntác phẩmgiá trị này đến với độc giả và thính giả gần xa.
Nam MôBát Nhã Hội Thượng Phật Bồ Tát.
Viết tại Tu ViệnQuảng Đức, Melbourne, Úc Châu ngày 01/07/2020
Thích Nguyên Tạng Chủ Biên Trang Nhà Quảng Đức
TỰA
Nói về quá trình thành lập và triển khai của kinh điển thuộc hệ Bát Nhã(1), thì Đạo Hành Kinh 10 quyển của Chi Lâu Ca Sấm (Lokaraksha) có lẽ là bộ KinhBát Nhã cổ nhất, dịch vào thời Hậu Hán, xuất hiện vào năm 172(2). Tiểu Phẩm Bát Nhã Kinh, 10 quyển, gồm 29 phẩm, do Ngài Cưu Ma La Thập (Kumaràjiva) dịch vào đời Hậu Tần cũng xuất hiện sớm: Nội dung thuyết minh về các giáo phápBát nhã Ba la mật (các bản dịch khác của kinh nầy gồm: Kinh Đại MinhĐộ Vô Cực 6 quyển, do Ngài Chi Khiêm dịch vào đời Ngô, thời Tam Quốc; Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Sao 5 quyển, do các Ngài Đàm Ma Tì và Trúc Phật Niệm cùng dịch vào đời Tiền Tần). Kế tiếp là Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa 27 quyển (hoặc 30 hoặc 40 quyển), gọi là Đại phẩm Bát Nhã, cũng do Cưu Ma La Thập dịch vào thời Hậu Tần: Nội dung cũng thuyết minh về các giáo phápBát nhã Ba la mật. Đây là bộ kinhcăn bản nói về Bát NhãKhông Quán ở thời kỳ đầu của Phật giáoĐại thừa (các bản dịch khác của kinh này là Kinh Quang Tán Bát Nhã, 10 quyển, thiếu nửa sau, do Ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn và Kinh Phóng QuangBát Nhã, 20 quyển, do Ngài Vô La Xoa dịch vào đời Tây Tấn). Sau hết là Kinh Đại Bát Nhã của Ngài Huyền Trang dịch và các bộ Bát Nhã khác như Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật xuất hiệntiếp theo.
Trước Ngài Huyền Trang đã có một số Kinh Bát Nhã được dịch ra Hán văn như đã kể trên, nhưng vì chưa được đầy đủ nên Ngài Huyền Trang mới tổ chức dịch lại. Ngài Huyền Trang bắt đầu phiên dịch Đại Bát Nhã tại chùa Ngọc Hoa cung vào tháng Giêng năm Hiển Khánh thứ 5 (660) đời Vua Cao Tông nhà Đường đến tháng 10 năm Long Sóc thứ 3 (663) thì hoàn tất. Năm sau, Ngài thị tịch tại chùa Ngọc Hoa cung. Đó là một bản dịch đồ sộ gồm 24 tập, 600 quyển chia làm 16 hội, thuyết giảng tại bốn địa điểm là: 1. Núi Thứu Phong thuộc thành Vương Xá; 2. Lâm Kỳ ViênCấp Cô Độc; 3. Cung trời Tha hóatự tại và 4. Gần ao Cò trắng trong Tịnh xáTrúc Lâm, thành Vương Xá. Đó một đại tùng thư gồm hầu hết kinh điển thuộc hệ Bát Nhã.
Phải công nhận Đại Bát Nhã Ba La Mật (Mahaprajna-paramita-Sutra)(3), một bộ kinh vĩ đại, do Ngài Huyền Trang dịch, một công trình dịch thuật to lớn, nhưng lại trùng tụng(4) quá nhiều. Có những đoạn kinh cùng một ý tưởng hay cùng một giáo lý như nhau nhưng lặp đi lặp lại cả chục lần, có khi cả trăm lần như các pháp mầu Phật đạo… Do đó, việc luận giải sẽ gặp nhiều khó khăn.
Bản Việt dịch do Cố Trưởng lão HT. Thích Trí Nghiêmthực hiện 600 quyển, dài hơn 7.000 trang đánh máy khổ lớn, không thể chép lại đúng nguyên văn trong khi luận giải được. Nếu để nguyên, bản Tổng luận trở nên quá dài, không ai có can đảmđọc tụng cả! Để tiện việc nghiên cứu, tu học, chúng tôi bắt buộc phải tóm lược. Đó cũng chính là công việc của Ngài Cưu Ma La Thập khi soạn dịch Kinh MHBNBLMĐ. Nhưng Ngài La Thập chỉ soạn dịch Hội thứ II mà thôi, còn chúng tôi phải tóm lược tổng cộng 16 Hội. Kinh văn quá dài, chắc chắn phải cắt xén, nhưng tự hứa sẽ cố trình bày đầy đủ những gì mà Bát Nhã muốn truyền đạt.
Cũng xin Quý vị độc giả đừng quá lo ngại về việc cắt xén này. Phần cắt xén nhiều nhất là Hội thứ I (400 quyển đầu), từ Hội thứ II trở đi giảm dần cho đến Hội thứ V. Từ Hội thứ VI cho đến hết Hội thứ XVI tức chấm dứttoàn thể cácpháp hội ĐBN, gần như giữ nguyên. Quý vị có thể lấy bất cứ phẩm nào của Hội thứ I do chúng tôi tóm lược so chiếu với phẩm tương đương chưa tóm lược, quý vị sẽ thấy không khí gần như khác hẳn. Khác hẳn không có nghĩa là khác về nội dung mà là giảm bớt sự trùng tuyên làm cho chương cú của Kinh trở nên quá “loãng” hay quá nặng nề đối với lối tiếp thu của độc giảhiện đại. Chúng tôi chịu trách nhiệm về lời nói này.
Trong phần tựa Đại Bát Nhã, có thuật lại kinh nghiệm dịch thuật của Ngài Huyền Trang như sau: “Văn đã rộng lớn, người học thỉnh cầuTam Tạng Pháp sưHuyền Trang giản lược bớt; Pháp Sư hầu như muốn thuận theo ý của mọi người, giống như Ngài La Thập đã làm, cắt bỏ bớt những đoạn văn phiền phức trùng điệp. Khởi nghĩ như vậy rồi, đêm đến nằm mộng thấy có những cảnh tượngghê sợ răn đe như thấy bay lên cao quá nguy hiểm, đi đến những chỗ hiểm hóc, hoặc thấy thú dữ bắt người v.v… run sợtoát mồ hôi mới thoát được. Khi tỉnh giấc, thuật lại các việc ấy cho những người yêu cầu biết, rồi sau đó y như kinh phiên dịch nguyên văn, không cắt xén thêm bớt gì cả. Đêm đến bèn thấy chư Phật Bồ Tátphóng hào quang nơi chặng giữa mày soi xúc thân mình, tâm ý vui thích. Pháp Sư lại thấy mình tay cầm đèn hoa cúng dường chư Phật, thấy bay lên tòa cao thuyết pháp, có nhiều người xoay quanhngợi khencung kính, lại thấy có kẻ đem hoa quả thượng diệu dâng biếu cho mình. Khi tỉnh giấcvui mừng chẳng dám cắt bỏ, nhất nhất đúng như bản chữ Phạn mà dịch”(5).
Câu chuyện của người xưa nhắc nhở hậu bối phải cẩn thận khi tóm lược kinh. Như thợ mộc giỏi, phải đo đạt trước rồi mới xẻ gỗ, cưa cắt, bào đục sau. Nhưng phải cưa cắt như thế nào để sản phẩm nhìn vừa đẹp vừa khéo? Muốn vậy phải đo đạt, cưa cắt thật khít khao. Mỗi khi xẻ gỗ, cưa cắt không đúng ni tất, thì phải bỏ. Chúng tôi chỉ là thợ vụng, nên đo đạt nhiều lần trước khi cắt. Đã cắt rồi thì không thể ráp nối lại nguyên vẹn như trước nữa!
Chiết giải kinh cũng thế. Trước hết là trình bày chính văn, nếu chính văn quá dài, thì phải tóm lược. Tóm lược, mà cắt xén quá nhiều thì còn gì là kinh văn. Vậy, phải cắt xén hay giản lược vừa khéo. Nhưng chỉ cắt xén, giản lược những gì gọi là dư thừa, trùng lập, phần cốt tủy vẫn phải giữ nguyên. Đó chính là phương châm của chúng tôi. Sai lệch một đường tơ đất trời nghiêng lệch, tội lỗi không thể nào tưởng tượng nổi! Có lẽ ai cũng nhớ trong Truyền Đăng Lục có kể câu chuyện một Pháp sư chỉ vì giảng nhầm câu “bất lạc nhân quả” với “bất muội nhân quả” mà bị đọa làm kiếp chồn 500 đời.
Thích nghĩa:
(1). Hệ Bát Nhã trong Đại Tạng KinhViệt Nam tổng cộng có 41 bộ kinh, tổng cộng 777 quyển theo Tuệ Quang Wisdom Light Foundation, gồm các bộ:
1. Đại Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0220, 600 quyển, (Đường Huyền Trang dịch)
2. Phóng Quang Bát Nhã Kinh, mang thẻ số 0221, 20 quyển, (Tây Tấn Vô La Xoa dịch)
3. Quang Tán Kinh, mang thẻ số 0222, 10 quyển, (Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch)
4. Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0223, 27 quyển, (Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch)
5. Đạo Hành Bát Nhã Kinh, mang thẻ số 0224, 10 quyển, (Hậu Hán Chi Lâu Ca Sấm dịch)
6. Đại Minh Độ Kinh, mang thẻ số 0225, 6 quyển, (Ngô Chi Khiêm dịch)
7. Ma Ha Bát NhãSao Kinh, mang thẻ số 0226, 5 quyển, (Tiền Tần Đàm Ma Tỳ cộng Trúc Phật Niệm dịch)
8. Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0227, 10 quyển, (Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch)
9. Phật ThuyếtPhật MẫuXuất SinhTam Pháp Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0228, 25 quyển, (Tống Thí Hộ dịch)
10. Phật ThuyếtPhật Mẫu Bảo Đức Tạng Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0229, 3 quyển,(Tống Pháp Hiền dịch)
11. Thánh Bát Thiên TụngBát Nhã Ba La Mật ĐaNhất Bách Bát Danh Chân Thật Viên Nghĩa Đà La Ni Kinh, mang thẻ số 0230, 1 quyển, (Tống Thí Hộ đẳng dịch)
12. Thắng Thiên Vương Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0231, 7 quyển, (Trần Nguyệt Bà Thủ Na dịch)
13. Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0232, 2 quyển, (Lương Mạn Đà La Tiên dịch)
14. Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0233, 1 quyển, (Lương, Tăng Ca Bà La dịch)
15. Phật Thuyết Nhu Thủ Bồ TátVô ThượngThanh TịnhPhân Vệ Kinh, mang thẻ số 0234, 2 quyển,(Tống Tường Công dịch)
16. Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0235, 1 quyển, (Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch)
17. Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0236a, 1 quyển, (Nguyên Ngụy Bồ Đề Lưu Chi dịch)
18. Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0236b, 1 quyển, (Nguyên Ngụy Bồ Đề Lưu Chi dịch)
19. Kim CươngBát Nhã Kinh, mang thẻ số 0237, 1 quyển, (Trần Chân Đế dịch)
20. Kim Cương Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0238, 1 quyển, (Tùy Cấp Đa dịch)
21. Phật ThuyếtNăng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0239, 1 quyển, (Đường Nghĩa Tịnh dịch)
22. Thật TướngBát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0240, 1 quyển, (Đường Bồ Đề Lưu Chí dịch)
23. Kim Cương Đảnh Du GiàLý Thú Bát Nhã Kinh, mang thẻ số 0241, 1 quyển, (Đường Kim Cương Trí dịch)
24. Phật ThuyếtBiến ChiếuBát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0242, 1 quyển, (Tống, Thí Hộ dịch)
25. Đại Nhạc Kim CươngBất KhôngChân ThậtTam Ma Da Kinh, mang thẻ số 0243, 1 quyển,(Đường Bất Không dịch)
26. Phật ThuyếtTối Thượng Căn Bổn Đại Nhạc Kim CươngBất KhôngTam MuộiĐại Giáo Vương Kinh, mang thẻ số 0244, 7 quyển, (Tống Pháp Hiền dịch)
27. Phật ThuyếtNhân Vương Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0245, 2 quyển, (Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch)
28. Nhân VươngHộ QuốcBát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0246, 2 quyển, (Đường Bất Không dịch)
29. Phật ThuyếtLiễu NghĩaBát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0247, 1 quyển, (Tống Thí Hộ dịch)
30. Phật Thuyết Ngũ Thập Tụng Thánh Bát Nhã Ba La Mật Kinh, mang thẻ số 0248, 1 quyển, (Tống Thí Hộ dịch)
31. Phật ThuyếtĐế Thích Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, mang thẻ số 0249, 1 quyển, (Tống Thí Hộ dịch)
32. Ma Ha Bát Nhã Ba La MậtĐại Minh Chú Kinh, mang thẻ số 0250, 1 quyển, (Diêu Tần Cưu Ma La Thập dịch)
33. Bát Nhã Ba La MậtTâm Kinh, mang thẻ số 0251, 1 quyển, (Đường Huyền Trang dịch)
34. Phổ BiếnTrí TạngBát Nhã Kinh, mang thẻ số 0252, 1 quyển, (Đường Pháp Nguyệt Trọng dịch)
35. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, mang thẻ số 0253, 1 quyển, (Đường Bát Nhã cộng Lợi Ngôn đẳng dịch)
36. Bát Nhã Ba La MậtTâm Kinh, mang thẻ số 0254, 1 quyển, (Đường Trí Tuệ Luân dịch)
37. Bát Nhã Ba La MậtTâm Kinh, mang thẻ số 0255, 1 quyển, (Đường Pháp Thành dịch)
38. Đường Phạm Phiên Đối Tự Âm Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, mang thẻ số 0256, 1 quyển,(Hán văn: Tây kinh, trích từ bản sao chép trên vách tường đá của chùa Đại Hưng Thiện. Từ ÂnHòa thượng phụng chiếu thuật lời TỰA)
39. Phật Thuyết Thánh Phật MẫuBát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0257, 1 quyển, (Tống Thí Hộ dịch)
40. Phật Thuyết Thánh Phật Mẫu Tiểu Tự Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0258, 1 quyển, (Tống Thiên Tức Tai dịch)
41. Phật ThuyếtQuán TưởngPhật MẫuBát Nhã Ba La Mật ĐaBồ Tát Kinh, mang thẻ số 0259, 1 quyển, (Tống Thiên Tức Tai dịch)
42. Phật ThuyếtKhai GiácTự TánhBát Nhã Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0260, 4 quyển,(Tống Duy Tịnh đẳng dịch)
43. Đại ThừaLý ThúLục Ba La Mật Đa Kinh, mang thẻ số 0261, 10 quyển, (Đường Bát Nhã dịch).
Lưu ý: Theo Tuệ Quang Wisdom Light Foundation, tính theo thứ tự số thẻ có 43 bộ kinh thuộc hệ Bát Nhã. Nhưng không biết tại sao các nhà khảo cứu lại tính có 41 bộ mà thôi? Trong đây có nhiều bộ kinh có phẩm tựa và giáo nghĩatrùng hợp như kinh “Kim Cương Bát NhãBa La Mật” hay “Tâm Kinh”, do nhiều tác giả khác nhau dịch. Cứ theo sự hiểu biết của chúng tôi, nếu muốn lấy các bộ kinh làm tài liệuPhật học và xếp loại để tiện việc tra cứu, thì cứ mỗi bộ kinh do một tác giả dịch, có đánh số thẻ, đã lưu trữ trong Đại tạng kinh thì nên xem là một bộ, như kinh “Kim Cương Bát NhãBa La Mật” do Bồ đề Lưu Chi dịch có hai bản, có số thẻ là 0236a và 0236b. Đúng ra phải xem là hai bộ, mặc dầu cả hai bản dịch có tựa đề và nội dung giống nhau và cùng một dịch giả? Không biết các nhà khảo cứu xếp loại như thế nào về trường hợp này, nên mới xảy ra thắc mắc như trên? Nhiều Đại Tạng kinh khác lại tính là 44 bộ. Chúng ta sẽ không bị lẫn lộn về con số này, nếu chỉ cần biết số thẻ và tên kinh để tra cứu là đủ. Chúng tôi cũng lưu ýđộc giảcố gắng nhớ tên kinh và danh tánh dịch giả. Vì sao? Vì trong số 41 bộ liệt kê trên, có một số các kinh được xem là tương đương với các Hội của kinh Đại Bát Nhã mà quý vị cần phảitra cứu hay tham khảonếu cần. Đọc tới quý vị sẽ rõ.
(2). Đạo HànhBát Nhã do Chi Lâu Ca Sấm dịch tương đương với Bát NhãBát thiên tụng, hay Tiểu Phẩm Bát Nhã do Cưu ma La thập hoặc Phật MẫuBát Nhã do Thí Hộ và kinh rút ra từ quyển 538 đến quyển 555 của Đại Bát Nhã do Ngài Huyền Trang dịch(không có đặt tên, để tránh lẫn lộn với các kinh ngắn tương đương trên, chúng tôi tạm gọi kinh nầy là Tiểu BảnBát Nhã, do Phật thuyết ở Hội thứ IV. Xin quý vị độc giả ghi nhớ cho, vì chúng ta có rất nhiều cơ hội để thảo luận về bộ kinh nầy). Xét trên phương diệntriết học hay tôn giáo tất cả những quan điểm cốt yếu (giáo lý hạnh quả, kỹ thuật tu trì, quán tưởng…) của Bát Nhã đều nằm trong đó. Nếu xét theo niên kỷ, Kinh Đại Bát Nhãxuất hiện sau các tiểu phẩm, nên một số học giảPhật học cho rằng Đại Bát Nhãtriển khai các giáo lý và triết học Tánh Không từ các tiểu phẩm kể trên.
(3). Đại Bát Nhã do Ngài Huyền Trang dịch từ Phạn sang Hán, tổng cộng có tới 600 quyển, khoảng 167.300 bài tụng (sloka) tính theo Pháp Uyển Châu Lâm quyển 100 và Khai Nguyên Thích Giáo Lục quyển 11. Nếu diễn dịch Kinh ĐBN ra chữ thì tổng cộng hơn 5 triệu chữ. (Mỗi bài tụng gọi là sloka gồm 4 hàng, mỗi hàng gồm 8 chữ. Vậy, 1 sloka có 32 chữ; 32 chữ nhân cho 167.300 sloka bằng 5.353.600 chữ).
(4). Sự trùng tụng cốt ý là gội sạch cảm quan và ý thứcdễ dãi của những người đang hành trìBát Nhãđể tâm chứng bằng trực giác mà không qua trung gian của cảm quan và ý thức hay lý luậnnhị nguyên. Thiền sư D.T. Suzuki giải thích sự trùng tụng của Bát Nhã như sau: “Một trong những lý do tại sao các kinh này thường lặp lại quá nhiều, trùng tuyên quá nhiều, làm mệt óc các độc giả tân tiến như chúng ta, đấy là do sự kiện rằng tất cả các Kinh điển Đại thừa, nhất là Bát nhã Ba la mật, không cốt ý gợi lên những sự dễ dãi của suy luận, tức sự lãnh hội bằng trí óc; nó gợi lên một lối lãnh hội khác, mà chúng ta có thể gọi là bằng trực giác. Khi Bát nhã Ba la mật được đọc bằng tiếng Sanskrit, tiếng Trung Hoa hay tiếng Tây Tạng, không cố gắng lượm nhặt ý nghĩa luận lý của nó, chỉ một mực thành tâm và quyết định đi ngang qua những khối trùng lặp, con mắt Bát Nhã – Tunhan – dần dầnmở rộng và càng lúc càng nhìn thấu suốt hơn. Cuối cùng, rồi sẽ thấy, bất kể những mâu thuẫn, những tối tăm, những trừu tượng, huyễn hoặc, sẽ thấy sự thểtrong suốt lạ lùng vén mở “mặt kia cùng với mặt này”. Đây là sự phát khởi của Bát Nhã và sự học tập Bát nhã Ba la mậtsâu xa. Nơi đó là chỗ bí mật của sự tụng đọc kinh Bát Nhã”.
Tuy biết như vậy, nhưng cũng tùy chỗ, tùy thời thôi! Phần trùng tụng nhiều nhất là các pháp mầu Phật đạo. Hầu như bất cứ, Hội nào, phẩm, phần nào cũng lặp đi lặp lại các pháp này. Chúng tôi chỉ giản lược thay vì liệt kê tất cả “các pháp mầu Phật đạo hay còn gọi là 81 khoa danh tướng Bát Nhã” hàng trăm, hàng ngàn lần trong toàn đại phẩm.
(5). Trích lời trần thuật của Ngài Huyền Trang ở đầu quyển ĐBN.
TÀI LIỆUNGHIÊN CỨU:
Đại Bát Nhã Ba La Mật Tổng Luận mà chúng tôi sắp trình bày sau đây là kết quả tóm tắt và lược giải trên căn bản của hai kinh:
1- Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật (viết tắt MHBNBLMĐ) do Ngài Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán và HT. Thích Trí Tịnh dịch từ Hán sang Việt(1), và
2- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật (viết tắt ĐBN hay ĐBNBLM) do Ngài Huyền Trang dịch từ Phạn sang Hán và cố Trưởng lão HT Thích Trí Nghiêm dịch từ Hán sang Việt(2). Chúng tôi lấy ba bản: Hai bản Việt dịch và một bản chữ Hán, để tóm lược:
1/. Một là bản gốc đăng trong Tuvienquangduc.com (văn từ rất cổ kính, đó là bản gốc do cố Trưởng lão HT Thích Trí Nghiêm dịch, xuất bản năm 1997),
2/. Hai là bản đã nhuận văn xong, đăng trong Thuvienhoasen.org và Quangduc.com (do một nhóm Tỳ kheo và cư sĩthực hiện, xuất bản năm 2003) và
3/. Ba là bản chữ Hán, đăng trong Hoavouu.com.
Ngoài ba bản kinh chính trên, chúng tôi còn tham cứu thêm một số Kinh thuộc hệ Bát Nhã tương đương với các Hội của Kinh ĐBN như Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, Kinh Phật MẫuBát Nhã, Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật, Kinh Văn Thù Sở Thuyết, Đạo Hành Kinh, Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, v.v… đã đăng trong Đại tạng kinhViệt Nam và các Kinh khác trong số 41 bộ hay 43 bộ(tùy theo sắp loại) tổng cộng 777 quyển, Kinh thuộc hệ Bát Nhã nói trên. Vì vấn đềchuyển ngữ hay tư tưởng có nhiều điểm rắc rối, khó hiểu nên phải tham cứu nhiều. Đọc tới, quý vị sẽ rõ!
Thích nghĩa:
(1). Viện Phật HọcPhổ Hiền xuất bản P.L. 2530 DL. 1986 (trọn bộ 3 tập), Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minhấn hành P.L. 2539 DL.
(2). Kinh Đại Bát Nhã 24 tập, 600 quyển. Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: Cố Trưởng lão HT. Thích trí Nghiêm. Khởi dịch từ năm 1973 đến năm 1980 mới hoàn tất. Ấn hành năm 2003, Toàn tập dạng Words. PL. 2547, do Ban Bảo TrợPhiên DịchPháp TạngPhật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, đăng tải trong tuvienquangduc.com.