Vài Suy Nghĩ Về Tượng Pháp Của Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di Ở Việt Nam Hiện Nay

VÀI SUY NGHĨ VỀ TƯỢNG PHÁP CỦA
ĐẠI ÁI ĐẠO KIỀU-ĐÀM-DI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chúc Phú

 

Tranh vẽ Kiều-đàm-di ở Sri LankaTranh vẽ Kiều-đàm-di ở Sri Lanka

Tranh vẽ Kiều-đàm-di ở Sri Lanka

Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia sau khi vua Tịnh Phạn băng hà. Đây là sự thật được xác tín bởi nhiều nguồn tư liệu lịch sử. Với cái nhìn sơ khởi, có thể thấy Di mẫu Mahāpajāpatī Gotami xuất gia khi đã lớn tuổi. Có lẽ do chưa nắm bắt đầy đủ về yếu tố này cũng như các điều kiện đặc hữu của Di mẫu mà nhiều họa sĩ, điêu khắc gia đã phóng tác nên những tôn tượng được định danhDi mẫu Kiều-đàm-di nhưng chỉ dựa trêncảm xúc nghệ thuật mà không dựa trên cơ sở lý luận.

Bài viết ngắn này cố gắng phác thảo vài nét về chân dung của Di mẫuĐại Ái Đạo Kiều-đàm-di dựa trên những cứ liệu kinh điển khả tín. Qua đó, cung cấp một số dữ kiện quan trọng để các nhà tạo tượng có thêm cơ sở để thể hiện gần đúng về tôn dung của một bậc khai tổ của Ni chúng.

1. Vài nét về lịch sửchân dungDi mẫuĐại Ái Đạo Kiều-đàm-di

Về tên gọi, kinh điển Pāli đều thống nhất ghi là Mahāpajāpatī Gotami, tuy nhiên ở Hán tạng thì tên của bà được thể hiện rất đa dạng, vì có khi được dịch nghĩa, có lúc được dịch âm, như: Kiều-đàm-di (), Ma-ha Ba-xà-ba-đề (摩訶波闍波提), Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (憍曇彌), Đại Ái Đạo Cù-đàm-di (瞿曇彌), Đại Ái Đạo (大愛道), Đại ThắngSanh Chủ (大勝生主), Đại Sanh Chủ (大生主)… Trong những danh xưng này thì tên gọi Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (憍曇彌) có lẽ sát với nguyên tác Pāli: Mahāpajāpatī Gotami.

Theo Ký sự về các Trưởng lão Ni (Therī Apadāna), thuộc tác phẩmThánh nhân ký sự (Apadāna), Di mẫu sinh ra ở thành phố Devadaha, cha tên là Añjana, thuộc dòng Sākya, mẹ tên là Sulakkhaṇā[1]. Như vậy, Di mẫu vốn xuất thân từ hoàng gia, sống với phong cách của hoàng gia.

Có một sự kiện được kinh Cù-đàm-di kinh (瞿曇彌經) thuộc Trung A-hàmghi nhận về khả năng dệt vải và may vá của Di mẫu.

 Kinh ghi:

Bấy giờ, Ma-ha-ba-xà-ba-đề Cù-đàm-di đem một chiếc y mới màu vàng, được dệt bằng kim tuyến đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi sang một bên và thưa:

– Bạch Thế Tôn! Con đã tự tay cắt may chiếc y mới màu vàng dệt bằng kim tuyến này cho Thế Tôn. Cúi mong Thế Tôn thương con mà thọ nhận.

Đức Thế Tônbảo:

– Này Cù-đàm-di, hãy đem y này cúng dường cho chúng Tỳ-kheo. Dâng cúng cho chúng Tỳ-kheo là đã cúng dườngNhư Lai, cũng là cúng dườngđại chúng.

Đại Sinh Chủ Cù-đàm-di lại thưa đến lần thứ ba:

– Bạch Thế Tôn! Con đã tự tay cắt may chiếc y mới màu vàng dệt bằng kim tuyến này cho Thế Tôn. Cúi mong Thế Tôn thương con mà thọ nhận.

Đức Thế Tôncũng ba lần bảo:

– Này Cù-đàm-di, hãy đem y này cúng dường cho chúng Tỳ-kheo. Dâng cúng cho chúng Tỳ-kheo là đã cúng dườngNhư Lai, cũng là cúng dườngđại chúng[2].

Chi tiết này đã phần cho cho thấy, Di mẫu là người có khả năng lao động, tháo vát.

Kế đến, theo Tiểu phẩm (Culla Vagga), sau khi cầu thỉnhĐức Phật xin được xuất gia tại quê nhà Kapilavatthu nhưng bị từ chối, Di mẫu đã đi bộ một khoảng đường rất dài để đến Vesālī. Luật ghi:

Sau đó, Đức Thế Tôn khi đã ngự tại thành Kapilavatthu theo như ý thích đã ra đi du hành đi về phía thành Vesālī. Trong khi tuần du hành, Ngài đã ngự đến thành Vesālī. Tại nơi đó, trong thành Vesālī, Đức Thế Tôn ngự tại Mahāvana (Đại Lâm), giảng đường Kūṭāgāra.

Khi ấy, bà Mahāpajāpati Gotamī đã nhờ người cạo tóc, khoác y phục màu ca-sa cùng với nhiều người nữ dòng Sākya đã ra đi về hướng thành Vesālī, tuần tự đã đi đến thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Khi ấy, bà Mahāpajāpati Gotamī với hai bàn chân sưng vù, thân hình phủ đầy bụi bặm, khổ sở, buồn rầu, mặt mày ủ dột, đang đứng khóc lóc ở bên ngoài cổng ra vào[3].

Có thể thấy, khoảng cách từ Kapilavatthu đến Vesālī rất xa. Theo tính toán của bản đồ google ngày nay thì khoảng cách đó hơn bốn trăm km. Vào thời Phật, quãng đường đó có thể dài hơn. Chi tiếtbàn chân sưng vù phần nào cho thấy sự vất vả của hành trình này. Ở đây, Tiểu phẩm đã cung cấp thêm một dữ liệu cho thấy sức khỏe và khả năng đi bộ của Di mẫu, đặc biệt, đây là lúc Di mẫu đã nhiều tuổi. Vậy thực tế, lúc xuất gia thì Di mẫu khoảng bao nhiêu tuổi?

 Theo Ký sự về các Trưởng lão Ni (Therī apadāna), Di mẫu tự thuật rằng, mình thọ một trăm hai mươi tuổi:

– Bạch đấng Đại Hiền Triết, con đây đã được một trăm hai mươi tuổi tính từ lúc sinh. Bạch đấng Anh Hùng, chừng ấy là vừa đủ. Bạch đấng Lãnh Đạo, con sẽ Niết-bàn[4].

Nếu căn cứ vào niên đại thành lập Ni đoàn, tức vào năm thứ năm sau khi Phật thành đạo[5], cộng với số tuổi của Di mẫu, điều đó đã tỏ xác tín rằng: Nếu cho rằng Đức Phậttrải qua bốn mươi lăm năm giáo hóa, theo quan điểm Nam truyền, thì lúc xuất gia, Di mẫu đã tám mươi tuổi; nếu cho rằng đức Phậttrải qua bốn mươi chín năm giáo hóa theo quan điểm Bắc truyền, thì khi ấy Di mẫu đã bảy mươi sáu tuổi.

Trong thời Đức Phật, đã có nhiều cá nhân sống đến một trăm hai mươi tuổi được kinh điểnghi nhận, gồm có các trường hợp như: Phạm chí Tu-bạt (須跋)[6], mẹ của vua Ba-tư-nặc[7], trưởng giả Na-câu-la (那拘羅)[8], ngọai đạo Thương Chủ (商主)[9]… Thế nên Di mẫu thọ đến mức đó cũng có cơ sở.

Từ những dữ liệu được nêu dẫn trên, có thể tóm tắt rằng:

Thứ nhất, Mahāpajāpatī Gotami được sinh ra và lớn lên trong cung của dòng họ Thích, đời sốngsinh hoạt mang phong cách hoàng gia.

Thứ hai, bà là một phụ nữđảm đang, đã thành công trong việc nuôi dưỡngThái tử Tất-đạt-đa, có khả năng lao động tay chân và có sức khỏe rất tốt.

Thứ ba, vào lúc xuất giaDi mẫu khoảng từ bảy mươi sáu cho đến tám mươi tuổi.

2. Thực tếtượng pháp của Di mẫuMahāpajāpatī Gotami và những đề nghị ban đầu

Tranh vẽ Kiều-đàm-di ở Sri LankaPAINTING OF ARAHANT MAHAPAJAPATI GOTAMI

Painting Of Arahant Mahapajapati Gotami

Trong khoảng vài thập niên trở lại đây, do nhu cầu của chư Ni và sự thỉnh cầu của quần chúngPhật tử, một số cơ sở chuyên về tượng thờ như Zen Art, Thiên Phú Thạo, Tượng Phật Thanh Phong,  Tượng Phật Trần Gia… đã thiết kế tôn tượng tôn Ni Kiều-đàm-di. Ở đây, tùy theoquan điểm nghệ thuật của từng cơ sở, thậm chí kể cả quan điểm của chủ đầu tư mà đã có những tôn tượng của Di mẫu Kiều-đàm-di được thể hiện với nhiều phong cách khác nhau. Nếu như không có sự thuyết minh của người thực hiện thì khó có thể xác định đây là tôn tượng của Di mẫu Kiều-đàm-di vì không có bất kỳ một tiêu chí đặc thù nào dùng để xác định.

Trong khi đó, với tượng PhậtThích Ca thì khác, những đặc tướng riêng có như Nhục kế, tóc xoắn thành hình trôn ốc, phong cách Đại trượng phu (Mahapurisa)… dường như là những tiêu chí cố định để xác định đó là tượng Phật. Trong quá trình khai quật từ những di chỉ Phật giáo ở Mathura tại Ấn Độ hay Gandhara ở Pakistan, nhờ những đặc tướng riêng biệt này mà các nhà nghiên cứu mới có thể xác định được đâu là tượng Phật, đâu là tượng của các bậc Thánh.

Từ kinh nghiệmthực tiễn gần nhất là việc thể hiệntôn tượng Bồ-tát Thích Quảng Đức của UBND. Thành phố Hồ Chí Minh và Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2007. Từ cuộc thi sáng tác mẫu tượng đài Bồ-tát Thích Quảng Đức, Hội đồng Nghệ thuật TP.HCM đã chọn được mẫu tượng đài của điêu khắc gia Võ Công Thắng và đã thực hiệnthành công tại Công viên Bồ-tát Thích Quảng Đức, ở địa chỉ 72-74 đường Cách Mạng Tháng Tám, quận 3. Tượng đài đã được khánh thành vào ngày 18.9.2010.

Từ kinh nghiệm này, nên chăng chư tôn đức Ni trong Phân ban Ni giới Trung ương kết hợp với Viện Nghiên cứuPhật họcViệt Nam, Trường Đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh và những nhà họa sĩ, điêu khắc có tâm huyết với Phật giáo, đứng ra tổ chức một cuộc thi về tôn tượngĐại Ái Đạo Kiều-đàm-di (Mahāpajāpatī Gotami). Từ cơ sở đó, sẽ định hình nên những tiêu chí nghệ thuật đặc thù của tôn dung Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (憍曇彌, Mahāpajāpatī Gotami).

 Mặt khác, ngay như tên gọi của Di mẫu, thể hiện trong những văn bản hành chánhbiểu ngữlễ hộiliên quan đếnDi mẫu, cần phải ghi đầy đủ và thống nhất là Đại Ái Đạo Kiều-đàm-di (憍曇彌). Vì lẽ, nếu như chỉ ghi là Kiều-đàm-di (憍曇彌), tức chỉ mới đề cập đến họ của Di mẫu, vì trong thực tế có nhiều bậc tôn Ni trong dòng họ Thích cũng được ghi là Kiều-đàm-di (憍曇彌) như Xí-xá Kiều-đàm-di (翅舍)[10], Cát-ly-xá Cù-đàm-di (吉離舍瞿, Kisa Gotami Kisā-gotamī Kisā-gotamī Kisā-gotamī)[11], Sấu Cù-đàm-di (瘦瞿)[12]

3. Kết luận

Tượng pháp, nhất là tượng pháp của những tôn giáo lớn là điều quan trọng, cao quý và thiêng liêng và có tính thống nhất trong sự đa dạng. Đối với mỗi nghệ sĩ, tùy theoquan điểm nghệ thuật và năng lực của mình đã tạo nên những bức tượng tôn giáo với nét đẹp lay động lòng người. Tuy nhiên, trong sự đa dạng đó vẫn có những đặc điểm chung nhất, mang tính biểu trưng, tùy thuộc vào từng thể loại tượng pháp. Các bộ tượng pháp về Đức PhậtThích Ca, Đức PhậtDi Đà, Bồ-tát Quán Thế Âm, Tổ sư Đạt-ma… dù thể hiện trên nhiều chất liệu nhưng vẫn tuân thủ theo những quy cách vốn có để giới Phật giáo nói chung dễ dàng nhận diện.

Do vậy, đối với tôn tượngĐại Ái Đạo Kiều-đàm-di (憍曇彌), nếu như có sự quan tâm đúng mức ngay từ bây giờ của chư tôn đức hữu quan, tất sẽ tạo nên một mô thức có tính chuẩn mực về tượng pháp, không những cống hiến cho Ni giới Phật Việt Nam nói chung mà còn cho toàn thểNi chúng trên toàn thể giới.


[1]Tam tạngThánh điểnPhật giáo Việt Nam, tập 9, Kinh Tiểu bộ, tập 5, Thánh nhân ký sự, Indacanda, dịch. NXB.Hồng Đức, 2021,  tr.555.

[2] Nguyên tác: Cù-đàm-di kinh 瞿曇彌經 (T.01. 0026.180. 0721c25-0722a04). Nguyên tác: 爾時,摩訶簸邏闍鉢提瞿曇彌持新金縷黃色衣往詣佛所,稽首佛足,却住一面,白曰:世尊!此新金縷黃色衣我自為世尊作,慈愍我故,願垂納受. 世尊告曰: 瞿曇彌! 持此衣施比丘眾,施比丘眾已,便供養我,亦供養眾.大生主瞿曇彌至再三白曰:世尊!此新金縷黃色衣我自為世尊作,慈愍我故,願垂納受.世尊亦至再三告曰:瞿曇彌!持此衣施比丘眾,施比丘眾已,便供養我,亦供養眾.  Tham chiếu: Phân biệtbố thí kinh 分別布施經 (T.01. 0084. 903b23); M.142, Dakkhiṇāvibhaṅga Sutta (Kinh Phân biệt cúng dường).

[3]Tam tạngThánh điểnPhật giáo Việt Nam, tập 11, Hợp phần và Tập yếu, Indacanda dịch, NXB.Tổng Hợp TP.HCM. 2022, tr.903.

[4]Tam tạngThánh điểnPhật giáo Việt Nam, tập 9, Kinh Tiểu bộ, tập 5, Thánh nhân ký sự, Indacanda, dịch. NXB.Hồng Đức, 2021, tr.553. Nguyên tác Pāli: 319. “Sā vīsaṃvassasatikājātiyāhaṃ mahāmune, alamettāvatā vīra nibbāyissāmi nāyaka.”

[5] Theo, Nārada, Mahā Thera, Đức PhậtPhật pháp, Phạm Kim Khánh dịch, NXB.Tổng Hợp TP. HCM, 2019, tr.128.

[6]Du hành kinh 遊行經 (T.01. 0001.2. 0025a01).

[7]Tam tạngThánh điểnPhật giáo Việt nam, tập 3, Kinh Tương ưng bộ, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Hồng Đức, 2020, tr.116.

[8]Tạp. 雜 (T.02. 0099.107. 033a06).

[9]Tạp. 雜 (T.02. 0099.978. 0253a26).

[10]Biệt Tạp, 別雜 (T.02. 0100. 216. 0454a18).

[11]Tạp, 雜 (T.02. 0099. 276).

[12]Đại bát niết-bàn kinh大般涅槃經 (T.12. 0375.24. 0764b12).