Về Bố Thí Ba-la-mật

VỀ BỐ THÍ BA-LA-MẬT

Minh Đức Triều Tâm Ảnh

 

Sau bài viết Thái tử Sĩ-đạt-ta có ba bà vợ và bài Về chuyện bồ-tát Vessantara bố thí vợ con – tôi nhận được khá nhiều câu hỏi thắc mắc của độc giả TVHS và cả trên emai của tôi; tóm tắt, chúng xoay quanh ba nội dung sau:

– Bồ-tát mà đành tâm bố thí cả vợ con thì có được gọi là tuyệt tình, tuyệt nghĩa, chỉ biết “mưu lợi” cho bản thân mình, còn người khác khổ đau thì mặc kệ, trơ trơ vô cảm? Và như thế thì chẳng có chút tâm từ bi nào!

– Bồ-tát biết là người bà-la-môn xấu ác kia sẽ chết yểu, sẽ không hưởng được phần phước mà vua cha sẽ trọng thưởng khi hai trẻ được mang trả về triều; biết thế mà vẫn cho hai trẻ đến người bà-la-môn – thì có khác nào cho người mắt mù một cái Ipad, trong khi biết rõ y sẽ không sử dụng được?

Vợ con là vật hữu tình, là tình thâm, là máu huyết thiết cốt, lẽ nào vì đại nguyệnđại nguyện gì gì đi nữa cũng không nằm ngoài lực hút của tham vọngbản thân – mà đem cho đi như một sở hữu vật chất?

Câu hỏi nào cũng nặng như núi Tu Di. Câu hỏi nào cũng bắt ta phải suy luận, phân tích nhiều chiều để cố gắngchứng minh sự hợp lý cho nó – vì chúng ta đều là con Phật, như tục ngữ có nói “ăn cây nào, rào cây ấy”.Tuy nhiên, dẫu cho chúng ta có khéo suy, khéo luận thế nào cũng không vượt ra khỏi tâm địa, trí óc phàm phu của chúng ta, và cả kiến thức hạn hẹp, chủ quan của chúng ta nữa. Và ngay cả bố thí ba-la-mật (pāmitā) cũng không phải hai hệ Bắc, Nam cùng ngồi chung một chiếu!

Theo kinh văn truyền thống của Mahāyana thì bồ-tát tu tậplục độ ba-la-mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Nhưng theo Theravāda thì có đến thập độ cho các bậc bồ-tát: Bố thí (dāna), trì giới (sīla), xuất gia (nekkhamma), trí tuệ (paññā), tinh tấn (viriya), nhẫn nại (khantī), chân thật (sacca), quyết định (athiṭṭhāna), tâm từ (mettā), tâm xả (upekkhā). Và trong 10 độ này có ba bậc là bậc hạ, bậc trung và bậc thượng:

– Khi còn là phàm phu, trong các kiếp sinh tử luân hồi, một người tu học là bồ-tát phải thực hành trọn đủ 10 ba-la-mật bậc hạ, khi gặp đức Chánh Đẳng Giác mới có khả năng đắc quả A-la-hán. Bậc hạ, dāna-pāramī (Còn gọi là bố thí ba-la-mật): Đây là loại bố thí thuộc vật ngoại thân, ví dụ như bố thícủa cải, tài sản, ngọc ngà, châu báu, ngai vàng, quốc độ, vợ, con, tôi trai, tớ gái…

– Khi còn là phàm phu, trong các kiếp sinh tử luân hồi, một người tu học là bồ-tát phải thực hành trọn đủ 10 ba-la-mật bậc hạ, 10 ba-la-mật bậc trung, khi gặp đức Chánh Đẳng Giác mới có khả năng đắc quả A-la-hán, đồng thời được tuyên dương là vị đại đệ tử như nhị vị tôn giả Sāriputta và Mahā Moggallāna (Một vị Phật Độc Giác cũng phải trọn đủ 20 ba-la-mật như nhị vị đại đệ tử vậy). Bậc trung: dāna-upa-pāramī (Còn gọi là bố thí thượng ba-la-mật): Đây là loại bố thíliên hệ đến nội thân, ví dụ như tim, mắt, tay, chân, lá lách, thận… mà chưa đoạn lìa sanh mạng.

– Riêng đại bồ-tát của chúng ta, khi còn là phàm phu, suốt thời gian 24 vị Chánh Đẳng Giác, từ thời Phật Nhiên Đăng (Dīpaṇkara) đến Phật Ca Diếp (Kassapa), ngài phải thực hạnh trọn đủ 10 ba-la-mật bậc hạ, 10 ba-la-mật bậc trung và 10 ba-la-mật bậc thượng mới có khả năng đắc quảChánh Đẳng Giác. Bậc thượng: dāna-paramattha-pāramī (Còn gọi là bố thí thắng ba-la-mật): Đây là loại bố thíliên hệ đến mạng sống, cho đi cả mạng sống của mình.

Như vậy, khi tu tập ba-la-mật, dù là Phật Thinh Văn, Phật Độc Giác hay Phật Chánh Đẳng Giác đều phải thành tựucông hạnh như ba bậc kể trên. Tuy nhiên, theo Mahāyana thì sau khi đắc quả A-la-hán, vị ấy “hướng tâm theo đại thừa”, tu tập“lục độ ba-la-mật” mới được gọi là bồ-tát. Còn theo Theravāda, cho dẫu tu tập“thập độ ba-la-mật” thì vẫn còn phàm phu. Vậy những ai bàn về ba-la-mật của ngài, theo Nam tạng, phải dựa vàotinh thần ấy, nghĩa là:

– Không luận về giác ngộ, giải thoát vì đêm thành đạo, đại bồ-tát mới quán Thập nhị duyên khởi, thấy rõ vô ngã, tánh không của tâm và pháp mới đoạn tận được tham sân si.

– Không đưa ra những kiến giải bờ kia một cách rốt ráo vì ba-la-mật của đại bồ-tát chưa tròn đủ.

– Không luận về trí tuệvô lậu – vì trong đêm thành đạo, đại bồ-tát mới đắc Lậu tận minh.

– Không bàn đến chuyện bồ-tát cao hơn A-la-hán. Vì từ thời Phật Nhiên Đăng, bồ-tát Sumedha có khả năng đắc quả A-la-hán nhưng ngài “dẹp khả năng đó qua một bên” , có nghĩa là chưa đắc, để tu tậpcông hạnh ba-la-mật trải qua 24 vị Chánh Đửng Giác.

 – Không nói đến 4 tầng thánh quả, vì đại bồ-tát, dù kiếp cuối cùng, 10 kiết sửphiền não ngài chưa hề thấy biết, còn nói gì đến chuyện cắt từng sợi!

– Đừng đem chữ nghĩa, đao to búa lớn hoặc trích dẫn những kinh luận hậu tác để bàn về ba-la-mật của đại bồ-tát; và ngay cả những lời minh giải của tôn giả Na-tiên (trong một bài viết trước) cũng chỉ là kiến giảicủa riêng ngài Na-tiên để phá nghi một phần nào cho chúng ta thôi. Không ai có thể biết rõ tâm trí của đại bồ-tát được!

Có điều đáng nói nữa là tất cả Jātaka đều do người sau kể lại từ đời này sang đời khác, và khi ghi bằng chữ viết, truyện chỉ còn cô đọng lại nội dung chính mà thường bỏ quên rất nhiều chi tiết nhỏ, bỏ quên tâm trạng, cảm xúc, kể cả suy nghĩ tư riêng của các nhân vật. Nó thiếu hồn sống và cả sự sống của nhân vật.

Để tránh một vài thiếu sót, khuyết điểm nêu trên, tôi xin cống hiến tích truyện Thái từ Vessantara (Tu Đại Noa), bố thíBất Nghịch Ý mà tôi đã viết trên dưới ba mươi năm dựa theo Nam tạng (Vessantara Jātaka – Q.2), nay có nhuận sắc lại. Trong chừng mực nào đó, một chút hy vọng rằng, nó khá hợp lý và thuận hợp phần nào lý trí và tình cảm đời thường khi ngước nhìn trên cao chiêm ngưỡng“công hạnh bồ-tát-tính trăng sao vằng vặc”. Dẫu thế nào chăng nữa thì với tâm phàm phu bụi bặm, chữ nghĩavăn chương thô lậu, không tránh khỏi những hư cấu chủ quanvụng về. Xin sám hối với ba đời chư Phật và xin chư vị độc giảthiện trí thức hỷ xả cho.

 

Bố ThíBất Nghịch Ý

 

Từ một thuở rất lâu xưa, đức vua Sañjaya trị vì kinh đô Jetuttara, quốc độ Sivi, chánh cung hoàng hậu là Phussatī có phước báu rất đặc biệt. Do bà đã cúng dườngtrầm hương đến đức Phật Vipassī (Tỳ-bà-thi) nên luân lưu qua các kiếp trời và người, da thịt bà thường toả mùi trầm hươngkỳ diệu làm cho ai cũng phải trầm trồ, ngưỡng mộ và quý mến. Trong các kiếp ấy, có một kiếp, trời Đế Thích cũng phải mê mẩn, chọn bà làm thiên hậuvô cùngái luyến, cưng chiều.

Khi thấy mình tuổi trời sắp mãn, thiên hậu Phussatī quỳ xin Đế Thích thiên chủ 10 điều ước nguyện:

1) Xin cho thiếp được làm hoàng hậu của đức vua có tên là Sañjaya tại kinh đô Jetuttara, châu Diêm-phù-đề vì có duyên với vị ấy trong nhiều đời kiếp.

2) Xin cho thiếp có được cặp mắt trong sáng và đen huyền như cặp mắt thỏ.

3) Xin cho thiếp được giữ lại cái tên cũ là Phussatī mà thiếp rất yêu thích, dù đã thai sinhcõi người.

4) Xin cho thiếp sanh được một trai có trí tuệ thắng vượt cõi trần, có tâm bố thí ba-la-mật quãng đại, vô song – là nơi nương nhờ của những kẻ cô quả, đói nghèo và bất hạnh.

5) Lúc có thai, xin cho bụng thiếp đừng lớn ra mà chỉ trông như con gái bình thường.

6) Xin cho thiếp có đôi nhũ hoa nhỏ nhắn, không lộ ra bên ngoài, nhưng đầy tròn, xinh đẹpmãi mãicho đếntuổi già.

7) Xin cho cặp lông mày của thiếp có vành cong kiều diễm và mái tóc xanh đen mãi mãi, dù tuổi già vẫn không có sợi bạc.

8) Xin cho thiếp có được nhan sắc mỹ lệ, quang sáng và óng chuốt mãi mãi như vàng bạc qua tay trau dồi của những tay thợ thiện xảo.

9) Xin cho thiếp có được quyền uythế lực để có thể phóng thích tội nhân, tù nhân như ý muốn.

10) Xin cho thiếp được nghe tiếng thanh tao của những loài công ở gần hoàng cung và xin cho có bậc trí tuệ thường tới lui để nhờ giải những điều thắc mắc, nghi ngờ của thiếp.

Trong mười điều kể trên, điều nào, với oai lực của vị Thiên Chủ, Đế Thích đều thực hiện được, nhưng điều thứ tư quả thật là khó khăn. Một người con trai “trí tuệ thắng vượt cõi trần, có tâm bố thí ba-la-mật quảng đại, vô song – là nơi nương nhờ của những kẻ cô quả, đói nghèo và bất hạnh” – thì chỉ có đức đại bồ-tát mà thôi! Dùng thiên nhãnquan sát, biết đức đại bồ-tát hiện ở đây, tuổi thọ cũng sắp mãn nên Đế Thích đến thỉnh cầu đại bồ-tát xuống trần để bổ túc ba-la-mật. Đại bồ Tất nhận lời sau khi quán duyên, biết rõ nơi sanh thú có mẹ, có cha thân thuộc từng gieo duyên nhiều đời kiếp.

Vậy là sau khi thiên hậu xuống cõi trần, 16 năm sau làm hoàng hậu của đức vua Sañjaya tại kinh đô Jetuttara với tên cũ là Phussatī như ước nguyện. Kiếp này, hoàng hậu Phussatī vẫn thơm ngát trầm hương và mang vẻ đẹp mỹ lệ mà nữ nhânthế gian không ai dám sánh. Bà ở trong cung diện nguy nga tráng lệthường trực có 16 ngàn cung nga thể nữ hầu hạ, phục dịch.

Từ khi biết mình có thai (do đại bồ-tát hạ phàm), mỗi ngày hoàng hậu bố thíchẩn bần giúp những người đói khổ hết 60 ngàn lượng vàng. Do đó, nhà chiêm tinh đoán rằng: Hoàng hậu sẽ sanh hoàng nam là bậc đại phúc, có đức tintrong sạchphi thường không ai sánh bằng. Đức vua càng hoan hỷban thưởng cho hoàng hậu nhiều báu vật, để nàng tiêu phí tuỳ sở thích. Khi nàng mang thai được 10 tháng, sanh ra một hoàng nam đặt tên là Vessantarakumāra.

Đức Vessantara (Tu-đại-noa) giáng thế thì đồng thời, sáu muôn chư thiên cũng hạ sanh xuống rải rác trong quốc độ để sau này làm kẻ tùy tùng hầu hạ. Vì là dòng dõi của chư Phật hậu lai nên đức Vessantara có dung nghi và tư cách khác thường.

Vua Sañjayacoi vị hoàng nam này như ngọc báu của quốc độ. Ngài cho xây bốn tòa cung điện. Mười thầy bà-la-môn uyên bác đảm trách về giáo dục. Hai mươi thị nữ săn sóc và hầu hạ. Mười vị lương ytrứ danhtúc trực sẵn sàng để coi về sức khỏe cho hoàng tử. Ngoài ra, võng lọng, kiệu xe, ngựa voi, thú vui, vật lạ – chẳng có gì là không đầy đủ.

Lên tám tuổi, đức Vessantara xin vương phụ cho được tự dobố thí. Mỗi ngày, ngài bố thí mười ngàn đồng tiền vàng với lời đại nguyện:

– Xin nguyện bố thíbất nghịch ý đến tất cả chúng sanh, không những bạc tiền và sở hữu có được – mà còn bố thítứ chi, mắt tim, thân thể và luôn cả tính mạng!

Lời nguyệnvô thượng làm cho địa cầu rung chuyển, lan xa đến mấy cõi trời. Chưthiên hữu tình rải hoaca ngợi. Vô lượngchúng sanhcảm thấy trong tâm phát sanh hỷ lạc. Trong khi ấy có con vương tượng từ núi Tu Di đi qua hư không hạ xuống kinh thành, biếu tặng đức Vessantara một con voi báu bốn ngà vàng cao quý. Biết đây là thần linhban cho nên đức Vessantara đặt tên là Voi Thần. Khi ngài ngự trên voi báu, vẻ uy nghi và sáng rỡ của cả hai khiến người người chiêm ngưỡngtrầm trồ khen ngợi cho sự tương hợp kỳ lạ giữa chúa loài người và chúa loài voi. Đôi khi thích chí, Voi Thần bỏ mặt đất, bước qua cổng thành, chở đức Vessantara dạo chơi giữa hư không. Mười ngàn thớt tượng của đức vua mỗi khi thấy Voi Thần đi ngang qua thì run rẩy, hai chân trước khuỵu xuống, phủ phục không dám ngẩng đầu lên.

Từ khi đức Vessantara được Voi Thần cũng là lúc vua Sañjaya được làm chúa chư hầu. Các nước lân bang từ lâu có ý xâm lăng, dòm ngó – nay đều chịu thần phục và xin triều cống. Mỗi năm, của cải từ bốn phương đem về kinh đô Jetuttara còn hơn trăm con sông đổ nước về biển. Vua Sañjaya cho xây mười ngàn cung khố, tuyển thêm mười muôn binh để lo việc chuyên chở, săn sóc và bảo quản. Sáu ngàn cung phi mỹ nữ sủng ái, mười ngàn quan đại thần đều được hưởng lộc vạn thặng.

Cung điện của đức vua Sañjaya từ đây biến thành cảnh thiên đườnghạ giới, lúc nào cũng cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm!

Đức Vessantara lúc ấy đã được phong làm Thái tử. Vợ là công chúa Maddī. Ít lâu sau, hai bé Jāli và Kaṇhā ra đời. Dường như tâm từ bi và lòng quảng đại của ngài lớn dần theo với tuổi tác. Trong khi triều đình càng lúc càng chìm sâu vào cảnh hưởng thụ, vinh hoabiếng nhác thì đức Vessantara đã cho xây thêm trạm phước xá thứ sáu. Và, mỗi ngày thay vì bố thí mười ngàn đồng tiền vàng, bây giờ đã lên đến một trăm ngàn. Đã thế, ngài cho rằng chưa đủ. Mấy ngàn tay chân thân tín đi khắp tất cả các thôn làng hẻo lánh, núi non xa thẳm để rao truyền tin lành về nước Phật phước thiệntừ bi – rồi tìm đủ mọi cách giúp cho kẻ nghèo đói, khốn khổ được về kinh thành chiêm ngưỡng đức Vessantara cùng tấm lòng nhân hậu hiếm có của ngài.

Cổ đức có dạy: “Ma quỷ thường sợ ánh sáng”. Các quan đại thần triều đình vua Sañjaya, hôm kia họp nhau vào quỳ dưới chân đức vua.

– Tâu đại vương! Tài sản nước nhà thì có hạn – mà sự bố thí hàng ngày của Thái tử là vô hạn. Xin nghiêm thượng xét lại, quốc độ sẽ có lúc nguy vong.

Một vị khác tâu:

– Không những thế, hằng muôn người lại bỏ bê, lười biếng trong công việc, ăn không ngồi rồi, chỉ chầu chực miếng cơm, manh áo của Thái tử. Sự hưng thịnh của triều đại, tài sản sẵn có không quyết định – mà chính do của cải tăng vượng mỗi ngày, sự bắt tay góp sức của mọi tầng lớp lao động quyết định. Đây là mối nguy cơ nghiêm trọng cho xã tắc – bọn bầy tôi ngu dốt cảm thấysợ hãi vô cùng!

Trăm người như một, thít tha phụ họa – Vua Sañjaya rất lấy làm bối rối.

Các đấng tiên hiền có nói: “Ma quỷ thường núp sau những lý luận bằng vàng ròng”. Vua Sañjaya dẫu có đem tâm thiên vịThái tử, rốt lại cũng phải xuôi theo cái nguyện vọng của phần đông. Thái tử được gọi đến.

Đức Vessantara lẳng lặng nghe vương phụ và triều thần trình bày xong, ngài nhăn mày, tự nghĩ:

– Các quan đại thần này vốn không phải là người xấu, nhưng quyền lợivật chấtđời sốngvinh hoa làm cho họ tối ám lương tri. Chúng đã tìm ra kẻ hở của công việc ta làm. Nhưng trí tuệ ba-la-mật vốn là Kim Cương bất hoại, xin nguyện sẽ đập vỡ những lý luận cứng rắn nhất.

Ngài nói:

– Cả hai điều mà các quan đại thần đưa ra đều hợp lý. Thế nhưng, mười ngàn cung khố của quốc độ, con đâu có đụng chạm đến? Thưa vương phụ! Tiền bạc và của cải bấy nay con chi dùng vào việc lợi tha, vốn là tài sản mà vương phụ và mẫu hậu đã cho con. Như vậy thì, con đâu có lấy của công mà làm việc tư riêng, dẫu là việc tư riêng có ý nghĩa phước thiện?

Đức Vessantara lại tiếp:

– Còn việc ăn không, ở rỗi của lê dân. Điều này thật là tai hại. Nhưng sự ăn không ở rỗi của đám ngu dân nghèo đóibất hạnh kia – có nguy vong hơn sự ăn không ở rỗi của những kẻ có bạc tiền, thế lực và quyền uy? Sự xa xỉ, vinh hoa của chúng ta, của cung điện, của mấy chục ngàn gia đìnhquan đại thần, cung phi, thị nữ, tỳ thiếp mấy muôn người… xem chừngtài sảnquốc độ còn mau khánh kiệt hơn nhiều. Đừng vì quyền lợi của mình mà bảo vệlẽ phải một chiều trong cái hàng rào kiên cố bằng vàng, có ẩn giấu móng vuốt của quỷ ma!

Các quan đại thầnhổ thẹn cúi gầm mặt xuống.

Đức Vessantara lại quay qua đức vua:

– Thưa Phụ vương! Để giúp cho việc phước thiện được hoàn hảo. Các thầy bà-la-môn hảo tâm, một ngàn thiện-bằng-hữu đã tiếp tay với con – bằng cách kiếm công ăn việc làm cho những người ở rỗi. Mỗi ngày, một trăm cơ quanhoạt động khắp nước, tạo nghề nghiệp cho mấy muôn người.

Trong nay mai, con lại mời thêm một trăm thầy bà-la-môn và chuyên gia lỗi lạc khắp trong các tiểu quốc, mở trường dạy học về chữ nghĩa, đạo đức cùng các công nghệ chánh mạngthực dụng. Thưa vương phụ! Như vậy, xa rộng con đều đã nhìn thấy, trước và sau con đều có nghĩ suy. Nhân, duyên và quả đều nằm trước tầm mắt, thì làm sao con lại có thể tác ý hoặc hành động lầm lỗi?

Lý luậnđanh thép chặt chẽ và câu hỏi của đức Vessantara như chiếc búa nặng ngàn cân rơi xuống triều đình, không ai đỡ nổi.

Vua Sañjaya nhìn đám quan đại thần như đàn khỉ cáo run sợ trước uy dũng của thái thử, con ngài, đức vua sung sướng đến phát khóc. Lát sau, để trấn tĩnh cái hoan hỷ đang xôn xao, bừng bừng kia lắng dịu – đức vua sai cấp thêm cho Thái tử mười kho vàng và bạc để cho ngài được trọn quyềnsử dụng vào các việc công ích.

Từ đây, mỗi ngày, con sông Hằng đổ về biển đông bao nhiêu lượng nước – thì đức Vessantara đổ tâm từ ái và cơm áo ấm no từng ấy đến cho đám tiện dân đói khổ.

Tin đức Vessantara bố thíbất nghịch ýđến tất cả mọi người, loan truyền đi chấn động cả mấy trăm tiểu quốc.

Kẻ nghèo đói – và dĩ nhiên có kẻ giả bộnghèo đói – từ khắp nơi lũ lượt tìm đến kinh đô Jetuttara đông như trẩy hội. Thái tửthỏa mãn tất cả mọi người. Và thế là các kho vàng và bạc cứ vơi dần.

Hôm kia, tám người bà-la-môn y áo phủ đầy bụi đường, mặt mày hốc hác và đôi chân tươm máu xuất hiện trước vương cung. Họ lắc đầu trước những của bố thí và chỉ xin được gặp Thái tử.

Đức Vessantara tiếp đón họ rất niềm nởlịch sự, truyền cho nội thị dẫn họ đến nơi tắm rửa, thay áo rồi dọn cơm nước đãi đằng.

Tám người bà-la-môn đồng thanh đáp:

Chúng tôilên thác xuống ghềnh, gian khổ nửa năm trường mới đến được nơi đây, chẳng phải là để xin một chiếc áo hoặc một bữa cơm cao sang của bậc vương giả!

Vậy thì các thầy có ước nguyện gì, cứ nói – Thái tửmỉm cườihoan hỷ cho họ an lòng và vững tâm – Chưa có ai gặp ta mà phải thất vọng!

Tám người bà-la-môn ngập ngừng nhìn nhau, chưa ai dám mở miệng. Sau rốt, có người đứng lên:

– Tấm lòng của Thái tử rộng lớn như trời biển! Chúng tôi bạo gan xin đức Đông Cung bố thí cho thớt Voi Thần!

Thái tửgật đầu nhận lời. Tám người bà-la-môn không ngờ chuyện trọng đại lại chợt trở nên dễ dàng đến thế. Đức Vessantara không những sẵn sàng bố thí Voi Thần mà còn bố thí luôn nài, yên cương khảm ngọc, dát vàng; những chuỗi bảo châu làm vật trang điểm, những hạt cườm bằng hổ phách lóng la lóng lánh quý giá vô ngàn. Tất cả đó trị giá là hai triệu tám muôn lượng vàng. Ngài cho đi với cả tấm lòng hoan hỷ và mát rượi tỏa ra trên khuôn mặt. Tám người Bà-la-môn được Thái tử đổ nước lên tay rồi trao cho Voi Thần, là con voi từ lâu đã làm đức Hộ Pháp cũng như là linh hồn của quốc độ.

Với tất cả sức lực của mình, tám người Bà-la-môn kéo cương, nài la hét, nhưng Voi Thần đứng yên không lay động, đưa đôi mắt đỏ lệ nhìn Thái tử. Hiểu ý thần vật, đức Vessantara đến bên voi, khẽ vỗ vào tai và nói những lời dịu dàng:

– Con mến! Nếu con thương yêu ta thì hãy đi theo người. Con là một giống vật linh hiển thì ở gần ta hay ở xa ta nào có nghĩa gì. Lấy đức mà cảm hóamọi người, dùng thần oai mà nhiếp phục kẻ nào tự cường tranh thắng muốn gây nạn binh đao máu lửa. Sứ mạng con ở đâu cũng giống nhau. Xa con ta cũng buồn lắm nhưng lời đại nguyện để thành tựu quả Vô thượng bồ-đề lại tối thắng hơn. Bao giờ đạt được Đạo Giác Ngộ, ta sẽ cứu độ cho con.

Lạ lùng thay, Voi Thần nghe xong, phủ phục xuống chân Thái tử, rồi chợt đứng lên cất một tiếng rống như sấm động, mặt đất rung rinh, hư không vang động không ngớt. Tám người bà-la-môn sắc mặt như chàm đổ, run run đứng không vững. Đức Vessantara trấn an, phủ dụ họ rồi lại trao voi. Voi Thần ngoan ngoãn theo chân tám người bà-la-môn bước ra cổng thành, phút chốc, cuốn đi như giông như gió.

Tin Thái tửbố thí Voi Thần lan đi rất nhanh. Kinh thành xáo động, phố xá đóng cửa, chợ không đông, nơi nơi tập họp nhau lại xì xầm bàn tán, người ca ngợiThái tử, kẻ tiếc rẻ Voi Thần. Có kẻ dám đánh cá với nhau: Mất Voi Thần làmất quốc độ! Tuy thế, phần đông người ta sống bằng trái tim chứ không phải sống bằng đầu óc. Quần chúngủng hộ đức Vessantara. Có người dám đặt cá lại: Voi Thần, các voi chính thống, không bao giờ phản chủ cũ.

Phía dân chúng thì như thế, ở triều đình thì vô cùnghỗn loạn. Cái thế an toàn, vững chãi, bức tường thành che chở cho họ trong một đời sống vinh hoaxa xỉ – do Voi Thần đem lại – giờ không còn nữa! Voi Thần mất là mất tất cả.

Mấy chục ngàn quan đại thần đến chật cả cung điện. Mười quan Thượng Thư đến quỳ dưới chân vua Sañjaya khóc rống lên:

– Tám người bà-la-môn là sứ thần bí mật của nước Kāliṅgā, âm mưu xin Voi Thần để đánh cướp quốc độ. Đức hoàng thượng ôi! Đại họa đến rồi!

Vua Sañjaya bàng hoàng cả người, ngồi chết sững trên ngai vàng.

Triều đình ồn ào như vỡ chợ, sự phẫn nộ của họ cuồn cuộn như sóng tràn. Những tiếng la, tiếng hét nổi lên. Tiếng khóc tiếng than xoáy vào tai vua Sañjaya như những mũi dùi băng lạnh.

Họ không dừng lại ở đó.

– Hãy trảm đầu tên bán nước.

– Pháp bất vị thân, xin hoàng thượng thẳng tay nghiêm trị.

– Hãy treo cổ Thái tử ngay!

– Hãy lưu đàybiệt xứ…!

Đức vua ra lệnh đòi Thái tử vào. Nhìn Thái tử với đôi mắt buồn bã, vua nói:

– Việc gì thì hoàng nhi đã hiểu rồi. Hoàng nhi đã không tiên lường hậu quả. Hãy nhìn vào sự phẫn nộ của mọi người. Hãy nhìn vào gương mặt bất mãn của triều thần. Ta biết là ta không thể bênh vực cho hoàng nhi được nữa. Hoàng nhi có tự biện hộ cho mình được không?

Đức Vessantara không hề bối rối:

– Thưa Phụ vương! Nếu quả thật hoàng nhi có tội thì hoàng nhi sẽ tự biện hộ. Nhưng ở đây hoàng nhi không có tội nên chỉ xin trình bày đúng pháp và luật – nghĩa là đúng theo lẽ phải ở đời!

Lời mở đầu của đức Vessantara làm cho mọi người không tin ở tai mình. Họ lại xôn xao.

– Voi Thần là do Vương Tượng từ hư khôngmang xuống biếu tặng cho hoàng nhi! Thưa vương phụ, vậy thìbố thí một vật sở hữu của mình, lẽ phảixưa nay có ai bắt tội? Pháp và luật của quốc độ có điều khoản nào quy định tội trạng những người cho đi vật sở hữu?

Đức vua và triều đình kinh dị. Không ai có thể ngờ chỉ với một câu hỏi, Thái tử trắng án ngay tức khắc. Một cái tội to lớn dường ấy mà Thái tử đã làm cho mình trở thành vô tội!

– Có thể có điều này – đức Vessantara tiếp – Voi Thần tuy là sở hữucá nhân, nhưng nó đã trở thànhquyền lợi của cả nước! Thưa Phụ vương! Nếu bắt tội hoàng nhi đã không nghĩ đến quyền lợi chung thì quả là hoàng nhi có tội!

Nhưng than ôi, cái gọi là quyền lợi chung ấy nó mới hàm hồvô nghĩa làm sao! Không có quyền lợi chung cho lê dânbá tánh mà chỉ có quyền lợi của giới chức trị vì, của trăm quan sống đời vinh hoa và hưởng thụ. Từ muôn đời, đám đông bá tánh vẫn bị hy sinh bởi nhân danh và nhãn hiệu!

Đức Vessantara lại buộc tộitrở lại đức vua và quần thần bằng sự thực không ai chối cãi. Minh thư có dạy: “Ma quỷ không dám nhìn cái bóng của chính mình”. Cũng vậy, sự thật quá trần truồng và gớm ghiếc có ai dám nhìn thẳng bao giờ? Sự thật có thể làm đau xót những trái tim chân thực, nhưng lại là sự phẫn nộ của quỷ ma. Hơn ai hết, đức Vessantara biết rõ điều ấy, nên ngài cất giọng dịu dàng:

– Nhưng mà thôi! Chân lý người ta thườnghiểu là tùy thuộc đám đông! Thưa vương phụ! Ở đây hoàng nhi chỉ có một mình! Để vừa lòng triều thần, xin vương phụ hãy nghiêm trị hoàng nhi!

Vua Sañjaya bối rốivô cùng.

Một vị Thượng Thư dõng dạc nói:

– Tâu bệ hạ! Những lời của Thái tử quả là quá nặng nề. Nhưng dám thưa Thái tử một điều: Nếu Voi Thần trở lại xâm lăng quốc độ thì Thái tử nghĩ thế nào?

Đức Vessantara mỉm cười:

– Nếu vậy thì ta đúng là một tên bán nước! Nhưng xin lão thần hãy an tâm. Không bao giờ có chuyện đó xảy ra. Voi Thần và ta là đôi bạn thân thiết. Không bao giờ Voi Thần làm cho ta phải bị sự phỉ nhổ của trăm họ!

Cuối cùng, vua Sañjaya phán:

– Căn cứ của hoàng nhi không có vững vàng, không được xây dựng trên thực tế. Thực tế là Voi Thần đã rơi vào tay xứ Kāliṅgā, một lân bang cừu địch. Ta ngồi giữa quần thần và trên đầu trăm họ, vậy thì ta phán truyền cho hoàng nhi án lưu đàybiệt xứ mười hai năm, tại dãy núi Gri-văng-ka thuộc Himavanta.

– Con sẽ phục mạng – Đức Vessantara nói – nhưng xin vương phụ cho hoãn thêm mấy ngày để con bố thí những gì còn lại.

Vua Sañjaya y lời.

Đức Vessantara vào nội cung gặp nàng Maddī:

– Nàng hỡi! Thái tử nói – Ta mang tội với quốc độ là đã cho Voi Thần đến một lân bang cừu địch. Triều đình phẫn nộ. Cuối cùng, vương phụ đày ta lên núi Gri-văng-ka mười hai năm biệt xứ.

Em yêu quý! Vậy thìchâu báuhồi môncủa cải mà phụ hoàng, mẫu hậu cùng ta đã biếu tặng, nàng hãy chi dùng vào việc lợi tha. Hãy bố thícúng dường đến các bậc tu hànhđạo sĩ. Hãy nhường cơm xẻ áo đến đám bần dân. Hãy sống đời trong sạchthiêng liêng với thiện pháp.

Nàng Maddī gục khóc trên vai chồng.

Đức Vessantara không giấu được xúc động, nhưng trấn tĩnh tiếp rằng:

Sinh ly, tử biệt người đời chẳng ai tránh được. Đừng đau thươngthái quá mà hại đến sức khỏe, ảnh hưởng đến hai con. Ta không bắt nàng phải giữ tiết nghĩa, hy sinhcuộc đời son trẻ cho sự đợi chờvô vọng. Nếu có vị vua nào vừa ý, nàng có quyền được tái giá để sống đời hạnh phúc lứa đôi. Vương phụ, mẫu hậu, nàng khỏi lo đến việc phụng dưỡng. Hai con là cành vàng lá ngọc, nàng lại chẳng cần lo nghĩ đến chuyện cơm áo và tương lai. Còn ta thì có cả đại nguyện trong lòng thì sá gì cam go trở ngại. Thôi! Mấy lời tâm huyết đã bộc bạch cùng nàng, nguồn cơn đã tỏ, sau trước đã tường, ta xin vĩnh biệt!

Nàng Maddī chợt ngồi thẳng dậy dùng khăn lau ráo lệ, giọng nói trấn tỉnh phi thường:

– Thiếp nghe rằng: Vợ thì phải theo chồng, phải thuỷ chung như nhất lúc vinh hoa phú quý cũng như khi hoạn nạn đói nghèo! Từ khi thiếp về gá nghĩa se duyên cùng chàng; chẳng hay thiếp đã có lỗi lầm nào đến nỗi chàng phải đem tâm khi rẻ?

Đức Vessantara ngạc nhiên, cầm tay nàng, hối hả nói:

– Ta đâu dám thế! Nàng quả không có lỗi lầm.

Nàng Maddī cất giọng giận dỗi:

– Thiếp không lỗi lầm! Thế sao Thái tử lại dám coi thườngtiết hạnhtrung trinh của người đàn bà mà khuyên thiếp nên tái giá với một bậc vương tôn công hầu nào khác? Lại nữa, nếu thiếp không lỗi lầm thì sao Thái tử đành đoạn cắt đứt tình nghĩa mà nói nên lời vĩnh biệt nọ kia? Thiếp có thể nằm trên sàng nhung, nệm gấm, vào ra gác ngọc lầu vàng trong lúc Thái tử dãi nắng dầm sương, đi chân đất, mặc áo vải, lót dạ qua ngày trái chua, củ đắng giữa chốn rừng thiêng nước độc ư?

Nói xong, nàng Maddī quay lưng lại, khóc tấm tức.

Xin lỗi nàng – đức Vessantara xuýt xoa nói – Ta đâu dám coi thường nàng. Quả thật ta sợ nàng chân yếu tay mềm, không kham nổi cuộc đời khổ ải.

Nàng Maddī ngước đôi mắt còn mọng nước:

– Nếu thiếp không ngại?

– Thì hãy đi – Đức Vessantara mạnh mẽ nói – cùng ta chia ngọt xẻ bùi hoặc uống cạn chén đời tân khổ. Nhưng nàng hỡi! Ta còn một điều ngần ngại!

Khuôn mặt ngọc đã lóe niềm vui:

Thái tử cứ nói!

Trầm ngâm giây lát, đức Vessantara nhìn lên ngọn núi Hy Mã ẩn hiện sau làn mây trắng tận cuối trời:

– Ở hay đi, trước sau đại nguyện của ta vẫn kiên định, vững vàng như đỉnh núi kia. Ta sẽ cho đi tất cả, dẫu cả cuộc đời. Nếu muốn đi theo, nàng hãy hứa với ta một điều.

Thái tử cứ nói!

– Xin nàng đừng ngăn trở bất cứ sở nguyện nào của ta!

Nàng Maddī cất giọng ôn nhu mà rằng:

– Dĩ nhiên! Có bao giờ mà thiếp không theo lệnh chàng? Ngay cả cuộc đời, tánh mạng của thiếp, chàng hãy tùy nghisử dụng, thiếp quyết không cau mày!

Đức Vessantara được lời như mở tấm lòng.

Sau đó, ngài bố cáo khắp nơi về ba ngày chẩn bầncuối cùng. Hai trẻ Jāli và Kaṇhā cũng đem của cảitư trang ra hùn góp. Nàng Maddī xin vua cha thêm hay ngày nữa về phần của cải của nàng. Tất cả năm ngày chẩn bần này trị giá có đến tám muôn triệu đồng tiền vàng, còn to hơn ngân khố của một tiểu quốc.

Đức Vessantara, vợ và hai con thảy đều hoan hỷ khi thấy niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt của đám người bất hạnh. Thời gianbố thí đã qua. Đến ngày lên đường, vua Sañjaya ban choThái tử sáu muôn thuộc hạ, hai mươi xe lương thực cùng của cải, tư trang và tư dụng. Chiếc long xa bốn ngựa đưa gia đìnhThái tử ra khỏi cổng thành. Đức vua Sañjaya và hoàng hậu Phussatī đỏ lệ trông theo nghẹn ngào. Hai vạn cung nga thể nữ lấy khăn vẫy, ôm nhau khóc như ri. Các quan đại thần, muôn dânbá tánh đưa đi chật đường, kéo dài đến hai do tuần. Chưthiên từhư không nhìn xuống, rải hoa đưa tiễn bùi ngùi.

Ngày thứ hai, đức Vessantara cho sáu muôn tùy tùngtrở về. Ngày thứ ba, người ta lại xin của bố thí. Đức Vessantara cho tư dụng và lương thực, sau đó ngài lại cho luôn bốn ngựa. Bây giờ hai trẻ ngồi trên xe, đức Vessantara kéo thay ngựa, nàng Maddī đẩy, cùng nhau vượt núi băng đèo. Người ta lại đến xin, ngài cho xe. Thế là chồng bồng trai, vợ ẵm gái tiếp tụccon đường vạn dặm…

Hôm kia, họ dừng lại giữa một khu rừng già hoang vu, hổ gầm, vượn hú nghe thật ghê rợn. Nhìn lên thì núi cao chớn chở, nhìn xuống thì vực thẳm mịt mùng. Đêm xuống lạnh, lương thực mang theo đã bố thí hết. Nàng Maddī nhìn hai con, tuy không dám thở than nhưng ruột đau đòi đoạn. Đức Vessantara đi kiếm trái cây trở về cùng ăn lót dạ qua đêm. Lần đầu tiên ăn trái lạ, vì đói, vì rét, hai trẻ ngộ độc, nôn mửa và lên cơn sốt. Nàng Maddī chỉ biết vỗ về, hà hởi. Nhìn sự quằn quại của hai con, đức Vessantara chắp tay lại, nhìn giữa thinh không, thốt rằng:

– Hỡi chư thiênhộ trìthiện pháp của châu Diêm Phù Đề! Nếu đây là sự thử thách của pháp, của các ngài; thì dẫu hàng trăm ngàn vợ conthân quyến có bị sinh ly hay tử biệt; dẫu cho hàng ngàn hố lửa lớn, rắn rít và độc xà làm hại – Vessantara này cũng không thể thoái luicon đường, dù chỉ là nửa bước!

Lời nguyền vô thượng, một lần nữa, lại làm cho địa cầu chấn động. Chúa trời Đế Thíchcảm thấynóng nảy trên thiên ngai. Các vị thần lập tức hiện xuống tìm cách làm cho hai đứa trẻ dứt bệnh và lành mạnhtrở lại.

Họ tiếp tụclên đường vào sáng hôm sau. Đến một thị trấn gần biên giới, người ta nghe tin, lại đến xin ngài bố thí.

Nàng Maddī nói:

Chúng tôi không còn gì!

Đức Vessantara khẽ vỗ vai nàng nói:

Chúng ta còn rất nhiều, em ạ. Có lẽ em quên đấy thôi.

Nói xong, đức Vessantara cởi bọc áo quần của mình trao cho người nghèo khổ. Người ta lại đến xin nữa. Nàng Maddī noi gương chồng, tặng bọc áo quần.

Người ta lại đến xin nữa. Hai trẻ bắt chước cha mẹ chúng, lấy áo quần của mình cho hết.

Đến tháng thứ nhất, sau khi rời thành, mỗi người chỉ còn một bộ áo quần trên người, ngoài ra không còn gì nữa. Dãi nắng dầm sương, trải qua ba mươi lăm do-tuần, hôm kia, họ đến biên địa một nước lân bang tên là Cetaraṭṭha, nghỉ chân ở cổng kinh thành Mātula. Đức vua chư hầu là Ceta nghe tin, tức tốc cùng đoàn tùy tùng năm trăm người bươn bả tới nơi. Dân chúng ở đây vật vả khóc than khi thấy tình cảnhthê thảm của gia đìnhThái tử. Gặp đức Vessantara, vua Ceta xuống ngựa, dập đầu xin Thái tử về thành nghỉ ngơi, luôn thể xin nhường lại ngôi báu cho bậc đại hiền. Đức Vessantara khiêm cung từ chối. Chẳng biết sao hơn, đức vua Ceta biếu tặng tư dụng, y phục và lương thực. Đức Vessantara cùng vợ con, dùng vật thực đủ no lòng rồi lại lên đường. Vua chư hầu thở than không ngớt, sau đó đích thân xuống ngựa, tiễn gia đìnhThái tử đến chân Himavanta.

Dãy núi đầu tiên của Hy Mã Lạp là dãy núi Gandhamādana. Đến đây, đức vua ân cần gởi gắm gia đìnhThái tử cho một người thợ săn uy tín tên là Cetaputta – là thủ lãnh mấy trăm thợ săn chốn non thiêng – rồi ngậm ngùi từ giã. Xế trưa, Thái tử dừng nghỉ dưới gốc đa to, tàn phủ mấy chục trượng, có những trái chín và ngọt như mật ong. Độ những trái cây ngon ngọt hy hữu, từ giã Gandhamādana đi đến chóp núi Nāḷika; đức Vessantara và gia đình dừng nghỉ nơi một chiếc hồ nhỏ xinh đẹp phô thắm tía hồng rực rỡ. Mùi hương sen thoang thoảngdịu dàng. Một đạo sĩ chống gậy sau khóm cây rừng bước ra, không chào hỏi, nhìn Thái tử một hồi lâu.

– Bậc hoàng giaquý tộc lại muốn vào non xanh này làm đạo sĩ sao? Đạo sĩ hỏi.

Đức Vessantara đứng dậythành kính đáp lễ rồi nói:

– Thật chưa dám như thế, thưa tiên nhơn, dẫu là lòng mong muốn lắm. Tôi chỉ là kẻ có tội với quốc độ nên đến núi Grivaṅka sống kiếp lưu đày!

Vị ấy là đạo sĩ Accutatapasa chợt “a” lên một tiếng, rồi quẳng gậy chạy lại:

– Vậy ngài chính là đức Vessantara, Thái tử con vua Sañjaya nước Jetuttara?

– Cái danh của thế tục kia e rằng làm bẩn tai bậc ẩn sĩthanh tịnhThái tử nói – Chẳng hay đạo sĩpháp hiệu là gì, cho kẻ áo trắng chúng tôi được bái phỏng?

– Là Accutatapasa – Đạo sĩ đáp một cách mau mắn. Có kẻ lại gọi là Chơn Nhơn đạo sĩ Nāḷika. Ôi! Nhưng mà tên gọi mà làm gì, hư danh mà làm gì! Chính tấm lòng của Thái tử mới làm cho Ngu sơn nhân này bái phục!

Họ hàn huyên giây lát. Đạo sĩ Accutatapasa lấy cây trái đãi đằng rồi sau đó ân cần chỉ lối cho Thái tử đi đến khu rừng Grivaṅka, chúc ngài một đời sống tịnh tu an lạc.

Sau khi đạp qua những cánh rừng hẻo lánh, thâm u, đến chiều tối, họ mới đến được nơi chỉ định là rừng thiêng Grivaṅka,. Đây là khu rừng già hiu quạnh, nằm giữa lưng chừng mây. Chim kêu, vượn hú tịch mịch lạ. Ánh nắngmặt trời nhợt nhạt xuyên qua một khoảng đất trống. Thái tửngạc nhiên xiết bao, ở đây có hồ sen Mucalinda thiên nhiênkỳ diệu, nước trong xanh biêng biếc, năm sáu màu sen phô sắc và phơi hương. Và ô kìa! Có hai chiếc tịnh thất không xa nhau lắm, dựa lưng một gốc cây cổ thụ với tán lá xanh rì trông thật duyên dángngoạn mục.

Đức Vessantara, vợ và hai con lần đến nơi. Một tấm biển có đề chữ đập vào mắt mọi người: “Nơi tịnh tu, xin dâng cúng đến hàng xuất giađạo sĩtùy nghi sử dụng”. Biết có thần nhân giúp đỡ, Thái tử phát sanh hỷ lạc, gọi vợ và con đến dạy rằng:

– Đây là chốn thiêng liêng. Ngoài các vị thiên thần lại có cả các loài phi nhân lẫn ác thú ngụ cư. Từ rày ta phải tu hành cho tinh tấn, ghép mình vào phạm hạnh, trú trong vô lượng tâm. Nếu bê trễ, dể duôi, thiên thần sẽ không hộ trì ta nữa mà còn bị ác thú, độc trùng, phi nhơn làm hại. Phu nhơn và hai con hãy khá ghi lòng.

Đức Vessantara lại tiếp:

– Phàm phép tu tịnh hạnh thì trước tiên là phải sống đời tịnh hạnh. Ta với nàng ân nghĩa mặn nồng, lại thêm hai con là sợi dây ràng buộcluyến ái – nhưng nay thì ta hẳn tránh xa. Nàng và các con ở một tịnh thất. Ta ở riêng một tịnh thất. Và chắc chắnthiên thần cũng muốn như vậy mới tạo hai tịnh thất ở hai nơi. Đời sống gần gũi thì tránh sao khỏi những giây phút yếu lòng, chỉ làm cho thiên thần khinh khi ghét bỏ. Vậy thì, nàng đừng bao giờ gặp ta trong lúc ban đêm. Nếu là ban ngày thì cũng phải có hai trẻ. Đã sống đời xuất giađạo sĩ thì ta phải sống xứng đáng là đạo sĩxuất gia. Điều này, phu nhân hãy khá ghi lòng.

Nàng Maddī hoan hỷthọ trì lời giáo huấn của đức Vessantara, sau đó lại bạch rằng:

Thái tử chỉ cho thiếp xin một đặc ân, là Thái tử khỏi nhọc công vào non hái trái. Thái tửcho phép thiếp chu toàn mọi bổn phận về cái ăn cái uống cho Thái tử và hai con. Đấy là niềm vui của người đàn bà. Ngoài ra, cây trái, nếu có dư thừa, Thái tửtùy nghibố thí. Được hầu hạ Thái tử là một hạnh phúc lớn cho thiếp vậy.

Với cảm giác khinh khoái nhẹ nhàng, tinh thần phơi phới, đức Vessantara và nàng Maddī cùng cắt tóc sống đời đạo sĩ. Từ đây, mỗi buổi sáng, nữ đạo sĩ Maddī thức dậy sớm, mặc y, quét dọn sạch sẽ trong ngoài tịnh thất; sắp đặtđâu đó thứ tự rồi xuống hồ sen múc nước đổ đầy các chỗ chứa. Nàng chỉ qua tịnh thất của đức Vessantara khi thấy cửa đã mở. Nàng múc nước cho ngài rửa mặt, tay và chân. Quét dọn tịnh thất kỹ càng trong ngoài, sau trước; dạy hai con luẩn quẩn chơi ở gần đức Vessantara để chàng tùy nghidạy bảo.

Trời vừa hừng đông là nữ đạo sĩ đã xách giỏ vào rừng kiếm trái cây ngon ngọt và trái củ dùng được. Bao giờ nàng cũng cố gắng về sớm để kịp giờ độ ngọ. Nếu về sớm hơn lệ thường, nàng dẫn hai con xuống tắm ở hồ sen. Đến trưa, nàng soạn phần trái cây và củ quả đẹp nhất cho đức Vessantara, còn nàng và hai con dùng phần còn lại. Độ ngọ xong, nàng dâng tăm xỉa răng và nước; thu dọn tươm tất mọi nơi mọi chỗ, nói lời phúc chúc đến đạo sĩ rồi nàng dẫn hai con về tịnh thất của mình.

Cuộc sống đều đặntrôi qua như thế. Được sự hộ độ chu đáo của nữ đạo sĩ, đức Vessantara tu hành tinh tấn. Chỉ một thời gian ngắn là ngài đã có thể trú định một cách vững vàng; tứ vô lượng tâm được làm cho hưng thịnh, viên mãn. Các loài thú dữ trong khuôn vi ba do-tuần nhờ tâm từ bi mát mẻ của ngài mà trở nên hiền lành. Rắn rít, độc trùng cùng phi nhơn tránh xa.

Nam và nữ đạo sĩ sống đời an tịnhtự tại như vậy trong một thời gian dài không có cáu bợn phiền não nào khởi lên. Trong khi đó, hai trẻ Jāli và Kaṇhā đã chập chững đi chơi với nai, khỉ và vượn. Có một chú sư tử con lẫn lộn giữa đám thú vậthiền lành này. Lại có một chú ngựa rừng nhỏ bé nhưng mạnh khỏe hay cõng hai trẻ rong chơi ven suối, bờ hồ. Các chú chim dễ thương, nhảy nhót ca vui đậu trên vai hai trẻ. Mấy chú thỏ, sóc thường rình trong những bụi sim chơi trò cút bắt. Khi trẻ hoặc vật bị xây xát chút đỉnh vì nô giỡn, cả bọn xúm lại hò hét chí chóe rồi tìm cách hái lá đắp vết thương cho nhau!

Nữ đạo sĩmỉm cười, thấy cõi lòng vui lên rộn rã.

 

Xứ kia có người Bà-la-môn Jūtaka đã già, sống đời ăn xin rày đây mai đó. Suốt bao nhiêu năm trường, lão dành dụm được một trăm đồng tiền vàng. Sợ để trong mình tiêu mất, lão tìm bạn tin cậy gởi số tiền này rồi đi xin ăn phương xa. Hai vợ chồng người bạn thấy lão vắng bóng lâu ngày tưởng là chết mất rồi, liền lấy tiền kia ra tiêu. Khi lão Bà-la-môn Jūtaka trở về thì tiền đã hết sạch. Chẳng biết làm sao, họ xin gả người con gái tên là Amittadā cho lão.

Về làm vợ người, Amittadā vẫn tỏ rahết lòng siêng năng tháo vác trong mọi công việc; không cảm thấyxấu hổ về việc lấy chồng già mà chỉ thầm thương mình số kiếp không may. Một số thanh niên thấy Amittadā có nhan sắc nên đã nhiều khi trêu ghẹo, nhưng nàng thường lãnh đạm hoặc cúi đầu trước lời ong bướm nọ kia. Thời gian lâu, những khi đi xách nước, kiếm củi là mối bận tâm cho nàng vì những chàng trai kia đã hát hò đối đáp những câu sàm sỡ.

“- Cô kia mà lấy chồng già

Đêm hôm ấm lạnh xương da có gì?”

Cậu kia đáp lại:

“- Thưa rằng, dẫu có được gì,

Xương da ấm lạnhlắm khi cũng buồn!”

Cho đến hôm kia thì Amittadā không còn chịu được nữa. Đợi khi lão Bà-la-môn về, nàng khóc tức tưởi:

– Mấy năm nay tôi bị chúng nó chọc ghẹo, bây giờ thì đến lúc quá rồi, thiếu đường cắt mặt mà thôi. Ông phải kiếm người đỡ đần thay tôi xách nước kiếm củi, nếu không tôi không thể ở với ông được nữa.

Lão Jūtaka khuyên lơn, an ủi rồi hứa sẽ kiếm trẻ giúp việc cho nàng.

Lão tính thầm trong bụng:

“- Mình nghèo mạt rệp, sống đời tơi bị thì lấy tiền đâu mà thuê trẻ, thuê người giúp việc. Và nếu có làm được việc ấy thì thiên hạ cũng cười cho thúi ruột, sẽ nói nghèo mà học làm sang. Sự bố thíbất nghịch ý của đức Vessantara con vua Sañjaya kia còn ai là không biết. Nghe đâu, sau khi cho voi báu, ngài bị đức vua cùng triều đình đày lên núi Grivaṅka cùng vợ và hai con. Ta sẽ lặn lội đến nơi xin hai trẻ kẻo người khác xin mất cũng uổng”.

Lão Jūtaka lại gật gù:

“- Tuy ta xin hai đấng hoàng tôn về làm tôi đòi, nhưng lại giúp cho đức Vessantara quý mến mau đạt sở nguyện. Như vậy, kể ra ta vẫn làm người thi ân, là kẻ có lòng nhân hậu!”

Lão bà-la-môn Jūtaka lẩm nhẩm đầy đạo lý như vậy xong, nhờ nàng Amittadā kiếm cho một đùm bánh nguội; sau đó, nhắm hướng Himavanta, núi Grivaṇka trực chỉ. Ngày đi đêm nghỉ, lặn suối trèo non ròng rã mấy tháng dài, lão đến chân núi Gandhamādana. Một cây đa to với những chùm trái chín ngọt như mật ong, lão Jūtaka ăn uống, nghỉ ngơi ở đó cho lại sức. Kế khu rừng, cạnh hồ sen nhỏ là chòi lá của người thủ lãnh thợ săn Cetaputta, kẻ được đức vua chư hầu ân sủng gởi gắm Thái tử. Lão Jūtaka lần bước tới định hỏi đường.

Gã thủ lãnh thợ săn thân to như hộ pháp, thấy lão bà-la-môn với tơi bị rách rưới, y đanh mặt lại:

– Lão già kia! Tới chốn rừng xanh này mà làm gì? Ngươi ỷ cái thân còm hổ báo chê thịt rồi muốn đi đâu thì đi sao? Cút ngay!

– Cho tôi hỏi chỗ ở của đức Vessantara…

Lão bà-la-môn Jūtaka chưa nói dứt câu, gã thợ săn bước tới, túm cổ lão và quăng ra ngoài gốc cây như bó giẻ. Chưa thôi, đợi cho lão Jūtaka lồm cồm ngồi dậy; gã thủ lãnh thợ săn đá văng tuốt xuống hồ. Đợi cho lão Jūtaka uống đầy một bụng nước; gã thợ săn sải xuống như con nhái, kéo lên túm chân xách ngược cho nước trào ra rồi lấy dây thừng cột chặt lão vào gốc cây. Y bẻ một khúc củi to làm gậy.

Lúc lão bà-la-môn Jūtaka vừa lai tỉnh mở mắt ra, gã thợ săn đã chỉ vào mặt, quát như sấm nổ:

– Chính thị bọn bây! Bọn bà-la-môn ăn xin độc ác dơ dáy! Chính tại bọn bây, bọn bà-la-môn tơi bị khốn nạn – mà đức Vessantara phải bị đày lên núi cao rừng thẳm. Lòng rắn rít và tâm tham lamvô tận, vô độ của chúng bay chưa đủ hay sao mà còn lê lết đến chốn này tìm đức Vessantara? Ngài còn gì nữa mà bố thí? Hả?

Gã thợ săn nói xong là đánh. Tay đánh miệng chửi om sòm lên. Lão Jūtaka đau đớn quằn quại rên la, không mở miệng phân trần được. Tội nghiệp cho lão bị một trận đòn thừa sống thiếu chết!

Đợi cho đến khi lão bà-la-môn ngất xỉu, bất tỉnh, gã thợ săn mới quẳng gậy, nghiến răng lẩm bẩm:

– Cho đáng đời cái bọn ăn hại! Cái bọn bay lợi dụnglòng tốt của người mà thỏa mãn cái hố tham không đáy. Ông sẽ bảo vệ đức Vessantara, thằng ăn xin nào vác mạng đến đây, ông “đần” cho nhừ xương, ông đập cho toác sọ dừa ra!

Hồi sau, lão bà-la-môn chống tay dậy, nghĩ ra được mưu chước dối lừa của quỷ:

– Tôi… tôi là người của đức vua Sañjaya – lão Bà-la-môn phều phào nói – đức vua hối hận nên phái tôi đến đây thỉnh đức Vessantara về kế vị ngôi vương…! Ông đánh nhầm người rồi!

Dẫu tiếng được tiếng mất nhưng gã thợ săn đã nghe rõ ý. Y cả kinh, vọt nhanh lại như con chồn, hối hảcởi trói cho người bà-la-môn, miệng xin lỗi rối rít.

Lát sau, các vết thâm tím đã được gã thợ săn hái thuốc đắp vào. Niềm nỡ dọn một bữa cơm với mật ong và thịt rừng, gã thợ săn tỏ vẻ ăn năn đến thương hại:

– Tội tôi đáng chết! Tội tôi đáng chết! Xin lão trượng nhân hậutha thứ cho!

Lão Jūtaka gượng cười nói:

– Ông làm như vậy là đúng, chẳng thể trách được. Cái bọn ăn xin bà-la-môn ấy là nguyên nhân cho Thái tửnhân đức của chúng ta phải bị lưu đày cùng với thê tử. Chỉ đáng tiếc một điều là ông đã quên, đã quên không hỏi rõ nguồn cơn.

– Dạ, phải rồi! Tội tôi đáng chết – Gã thợ săn lại xuýt xoa – Xin lão trượng bỏ qua cho.

Đêm ấy, lão Jūtaka được ngủ trên chiếc giường độc nhất của gã thợ săn với những tấm mền bông và da thú ấm áp. Gã thợ săn treo võng nằm trên cây canh chừng thú dữ. Sáng ngày, gã thợ săn đãi lão bà-la-môn một bụng no nê với thịt nai nướng, gói thêm một đùm nữa, rồi ân cần chỉ lối cho lão bà-la-môn lên đường. Qua những cánh rừng, bờ vực cheo leo, hiểm trở; vượt lên một đỉnh núi khác, ở đây lại gặp đạo sĩ Accutatapasa. Kinh nghiệm trận đòn hôm qua, lão Jūtaka khôn khéo giới thiệu mình là người của vua Sañjaya, lên thỉnh đức Vessantara hồi trào. Chẳng ngờ, khi nghe xong, đạo sĩ Accutatapasa cau mày:

– Hồi trào mà làm gì? Đừng có phá rối đời sống tịnh tu phạm hạnh của nam nữđạo sĩ.

Lão Jūtaka thót mình, ngạc nhiên hỏi:

– Thỉnh ngài hồi trào để kế vị ngôi vương, làm bậc chí tôn cao cả, điện ngọc lầu vàng, sung sướng và oai sang hết mực, thưa ngài?

Đạo sĩ Accutatapasa “hừ” một tiếng:

– Đó là cái đống bùn! Lão ngốc kia! Có hạnh phúc nào bằng hạnh phúc trầm tư thiền định? Lão biết gì mà xuôi ngược với ta? Cút đi! Để cho đức Vessantara thành tựuviên mãnthiền Sắc giới. Hãy đem cái ô trược ở nơi ngươi xuống dưới cuộc đời hôi hám kia thôi!

Nói xong đạo sĩ Accutatapasa nhắm mắt lại. Lão Jūtaka chẳng biết tính sao, đưa mắt nhìn khu rừng thâm u trước mặt, vượn hú, cọp gầm; xa xa khí đá bốc lên như những đám sương mờ, lúc dày, lúc loãng – thật chẳng biết lối nào mà đến núi Grivaṅka!

Lão Jūtaka chợt nghĩ ra một mẹo:

Đạo sĩquý trọng ơi! Nếu tôi gặp đức Vessantara để hỏi đạo thì được chứ?

Dối tráĐạo sĩ Accutatapasa gắt – Ta biết rõ tâm địa của ngươi như trong tay đang nắm một quả xoài. Kìa! Có tâm niệm nào ở nơi ngươi mà ta không biết, lại hòng lấy vải thưa che mắt thánh? Cút đi!

Lão Jūtaka sợ hãi. Rồi thở dài.

Trong lúc bất ngờ và thất vọng nhất, đạo sĩ Accutatapasa lại nói:

– Thôi được rồi, ta sẽ chỉ cho ngươi! Ôi! Ý người là khác mà nhân-duyên-quả thì lại khác. Cái thành tựu sau này của đức Vessantara còn to lớn hơn, tối thắng hơn cả những thiền định mà ta nghĩ. Nhưng này lão bà-la-môn, ta còn biết rõ cái chuyện hồi trào cũng là dối trá đấy nhé!

Lão Jūtaka xấu hổ cúi mặt. Đạo sĩ Accutatapasa cho lão ăn uống và dọn chỗ ngủ tươm tất. Khi tiễn lão bà-la-môn lên đường, sáng hôm sau, đạo sĩ Accutatapasa lại kể cho lão nghe tình trạng sống hiện giờ của hai nam nữđạo sĩ và con. Lại còn nói:

– Ngươi đến đây để xin hai trẻ, chuyện đó ta không cản làm gì. Nhưng tâm địa ngươi không tốt thì đời này ngươi sẽ gặt quả không tốt. Ta nói trước cho mà biết.

Lão Jūtaka cần biết gì chuyện đó, thấy được chỉ đường chu đáo, lão đã hối hả từ giã cảm ơn rối rít rồi đi ngay.

Lại thêm trọn ngày đường nữa lên thác xuống ghềnh, lão Jūtaka đến được núi Grivaṇka là đã đuối sức. Tuy thế, khi nhìn được hai chiếc tịnh thấtxinh xắn nằm gần hồ sen xanh mát lão thở phào nhẹ nhõm.

Lão ẩn mình trong một góc kín đáo, tự nghĩ:

“- Giờ đây thì nàng Maddī về rồi. Lệ thường nữ nhân khó dứt bỏ con cái như là núm ruột của họ. Có mặt nàng là trở ngại lớn cho ta. Hãy ráng đợi đến sáng mai, nàng vào non hái trái, chỉ còn đức Vessantara và hai trẻ, ta sẽ đến”.

Cũng trong đêm ấy, nàng Maddī không ngủ được. Điều này chưa từng xảy ra. Nàng chợt bâng khuâng và lo lắng không biết tự đâu. Linh tính báo cho nàng hay một việc chẳng lành đến cho chồng và con. Đêm về khuya quá mệt mỏi, nàng thiếp đi, lại rơi vào giấc mộngkinh hoàng. Nàng bị một người hình kỳ dị dạng, với lưỡi đao bén nhọn đến cắt lấy trái tim nàng và mang đi. Tỉnh dậy, mồ hôi dầm dề, tim nhảy thình thịch, cơ thể dường như không còn chút hơi sức. Xiết bao kinh hãi, nàng tự nghĩ:“Chẳng biết điềm lành dữ thế nào. Ở đây, chẳng còn ai khác! Hay là ta đến nhờ Thái tử đoán mộng xem sao?”

Tứ bề quạnh quẽ, nàng mạnh dạn đến gõ cửa.

– Ai đấy? Thái tử hỏi.

– Thiếp đây! Nàng đáp.

Giọng đức Vessantara vọng ra:

– Giờ là lúc không phải thời. Nàng hãy về đi!

Nàng Maddī khẩn khoản:

– Đúng vậy! Bây giờ là không phải thời, thiếp biết rõ chứ. Nhưng mà Thái tử ôi! Thiếp vừa trải qua một cơn mộng kinh hoàng, nên lo sợ quá.

Giọng đức Vessantara:

Vậy thì nàng đừng vào, đứng đấy rồi kể đầu đuôi tự sự cho ta nghe.

Nàng Maddī kể lại.

Thái tử chợt biết rằng: Ngày mai sẽ có người đến xin hai trẻ, và điều này sẽ là niềm đau đớn cho nàng xiết bao!

Đức Vessantara kiếm lời an ủi:

– Đã mộng mị thì hơi đâu mà nàng tin vào những điều mộng mị? Trước đây, phu nhơn vốn quen đời cao lương mỹ vị, nhung lụa ấm êm; nay vì theo ta mà cam chịudầm mưa dãi nắng, ăn chẳng đủ no, mặc chẳng đủ ấm. Sự thể như thế nên sinh ra tứ đạibất hòa, thân chẳng an thì tâm lay động, phát sanh mộng mị hão huyền. Có gì đáng để lo sợ hở phu nhơn? Hãy về mà an giấc đi thôi.

Nàng Maddī yên trí trở vềtịnh thất. Tuy thế, trong giấc ngủ chập chờn, nàng vẫn phập phồng lo lắng không khuây. Trời rạng sáng, khi muôn chim đang líu lo trên cành; nàng đã xong mọi công việc thường lệ, rửa mặt cho hai con, nàng âu yếm dạy rằng:

– Các con đừng đi chơi đâu xa nhé! Đừng hoang nghịch chạy nhảy mà vấp bụi té bờ. Hãy ngoan ngoãnnghe lời mẹ.

Nói xong, một tay ẵm Kaṇhā, một tay dắt Jāli, nàng đến am thất của Thái tử, nói những lời gởi gắm xót xa:

– Khi thiếp đi rồi, xin chàng ghé mắt để ý đến hai con. Chúng nó còn nhỏ dại, đâu có để ý đến cái gai dưới chân, cành cây gãy trên đầu? Lại nữa, hai trẻ hay đi chơi với muông thú; mà muông thú thì biết lúc nào nó trở tính bất ngờ? Thái tử ơi! Chúng nó là người bạn yêu mến, là nguồn an ủiấm lạnh ngọt bùi hiện nay của thiếp. Xin Thái tử hãy từ bithương xót chúng, chớ quên!

Đi được một lúc, nàng Maddī quày quả trở về, ôm hai trẻ, bồng bế hôn hít như chẳng thể rời chân, như linh tính phút giờ cách trở sinh ly.

– Ôi! Con ôi! Ước gì thân mẹ xẻ làm hai được? Một nửa lên non hái trái, một nửa ở lại với hai con! Ôi! Thương hại hai con tôi! Dẫu không cút côi mà cũng vắng cha thiếu mẹ. Thân danhhoàng tộc, là lá ngọc cành vàng mà phải chịu đọa đày giữa núi sâu rừng thẳm? Ai kia lên ngựa xuống xe mà con tôi thì phải ăn chaynằm đất; bệnh không thuốc thang, ăn không đầy dạ, lạnh lùng tuyết giá chẳng áo kép, chăn đơn? Ôi! Tội nghiệp hai con tôi.

Đức Vessantara thấy và nghe mọi chuyện, tự nghĩ: Ôi! Tình thương của nàng thật bao la như biển lớn, còn ta chỉ là con suối nhỏ. Nhưng ở đâu có tình thương buộc ràng, ở đó có hệ lụyđau khổ. Tình thương buộc ràng, bi lụy kia như trận mưa lớn, có thể làm tiêu hoại những pháp cao thượng, làm cho hư hủy những hạt giốngthiện pháp đang sinh mầm! Vì tình thương bi lụy kia mà nữ đạo sĩ Maddī kia dường như thối thất với con đường, với lời nguyệnban đầu.

Tâm của đức Vessantara thoáng rung động, nhưng nhờ định cănvững vàng, như gió thoảng qua, lại trở nên yên tĩnh.

Nàng Maddī rời tịnh thất chưa bao lâu thì lão bà-la-môn Jūtaka tìm đến.

Từ xa, thấy lão, Thái tử đã biết rõ, ngài thốt lên trong tâm:

“- Ehi va tabbo! Này người Bà-la-môn! Chính ngươi là pháp phương tiện đưa ta đến Niết-bàn. Chính ngươi giúp ta thành tựutrọn vẹnbố thí Ba-la-mật”.

Đức Vessantara dạy Jāli tiếp đón, rồi nói với con rằng:

– Này Jāli! Con có thích người bà-la-môn này chăng?

Jāli vốn là trẻ thông minh hết mực, biết ý cha nên vội vã đến bên lão bà-la-môn tỏ lời thân thiện:

– Cụ đã già mà mang xách gì nặng quá, để cháu tiếp hộ cho.

Lão Jūtaka tự nghĩ:

– Như loài công vừa sinh ra đã có màu sắc lóng lánh, như gai kia không mài dũa mà vẫn nhọn tự nhiên, trẻ này vốn là giống dòng quý tộc, nếu ta có xin về cũng rắn mắc khó dạy. Phải dằn mặt trước mới được.

Rồi ra vẻ giận dữ:

– Mày là con ai mà vô lễ đến thế? Sao dám lân la đến bậc trưởng thượng?

Bé Jāli nhìn bộ tướng hung tợn của lão bà-la-môn, sợ hãi thụt lùi núp sau lưng cha. Lão Jūtaka đến quỳ lạy đức Vessantara tỏ vẻ thân thiện:

– Muôn tâu bậc đạo sĩ đức hạnh! Lê dântrăm họ suốt cả các nước chư hầu không ai là không cảm phục ngài dám bỏ điện ngọc ngai vàng, vào rừng sâu sống đời khổ cư tịch mịch. Lão là kẻ ngu hèn, cũng đêm đêm nguyện cầu cho ngài được sức khỏe kiện toàn, an vui đời sốngẩn sĩthanh tịnh.

Lại mỉm cười“gian ngoa” nói tiếp:

– Chẳng hay Thái tử ở đây vật thực có đủ no lòng? Các loài ác thúphi nhơnngỗ nghịch có dám đến quấy rầy bậc tu hànhnhân đức không?

Đức Vessantara gật đầu, tuy hiểu rõ những lời hoa ngôn xảo ngữ kia, vẫn đáp:

Cảm ơn sự hảo tâm cùng những lời chúc tốt đẹp của người phương xa. Ta đang ở chốn rừng sâu hẻo lánh, đã sống hạnh khước từ và yểm ly đô thị, chẳng biết có thể giúp cho người được gì không?

Lão Jūtaka cố dệt thêm lời mở đầu cho trau chuốt:

– Nước của năm con sông to, nhất là sông Hằng chảy ra đại hải, mà biển kia cũng không bao giờ tràn ngập thế nào thì ơn đức của Thái tử đối với chúng sanh này cũng như vậy. Lão là kẻ ăn xin đói khổ thường haytâm niệm được gặp Thái tử, quỳ lạy và chiêm ngưỡngdung nhan, hầu cho kiếp bần hàn cơ khổ được tăng thêm phước thọ.

Lại tiếp:

– Sau nữa, lão cũng muốn xin một chút lộc mọn cho tuổi giàbất hạnh. Nhưng than ôi! Trải bao dặm trường gian lao, chân run gối mỏi, bò núi lội sông, đến được kinh đô Jetuttara thì Thái tử đã vào rừng sâu mất rồi. Nhưng quả là trời cao không phụ tấm lòng của người chí thiết, nắng mưa bươn bả, lão cũng tìm đến được nơi đây. Ôi! Thật đã không uổng một kiếp nhân sinhhèn mọn.

Đức Vessantara thấy lão lắm lời, khẽ nhắc lại:

– Thôi được rồi! Lão cứ nói những điều sở nguyện?

– Muôn tâu – Lão Jūtaka lại lạy – Thái tử đã mở lời thì lão cũng xin dám thưa: Thái tửbố thí cho lão hai trẻ, để tuổi già được nghe giọng oanh tiếng sáo cho bớt phần quạnh hiu!

Đức Vessantara nói:

– Trong kiếp này, chưa ai xin gì nơi ta mà phải bị thất vọng. Được rồi, nhưng lão đi đường xa nhọc mệt, hãy tắm rửa, ăn uống, nghỉ ngơi, rồi đợi đến chiều, được chăng?

Lão Jūtaka ngần ngại:

– Không được, lão muốn đi ngay…

Đức Vessantara đưa mắt nhìncon đường mòn nhỏ xuyên vào núi sâu, nơi mà nàng Maddī thường đi vào mỗi bữa sáng, nói rằng:

– Nữ đạo sĩ Maddī vừa có công sanh vừa có công dưỡng. Đi theo ta, sống với ta, nàng cũng sẵn có tâm bố thí. Ta muốn lão nán lại để có sự chứng kiến của nàng.

– Không được đâu – Lão Jūtaka lắc đầu – Thái tửlòng rộng rãi nên đã đánh giá người nữ quá cao. Chẳng có bà mẹ nào dám dứt bỏ con mình – là núm ruột không lìa – để cho kẻ khác, dẫu là với đại nguyện cao cả thế nào. Đợi lệnh bà về, nếu vì quyến luyếnthương tiếc thì trở ngại cho sự bố thí của Thái tử xiết bao? Một ngàn lần chiến thắng được mình, nhưng sẽ một lần thất bại trước giọt nước mắt của người đàn bà. Hãy cho gấp hai trẻ đến lão, rồi lão sẽ đi ngay.

Chẳng biết sao hơn, đức Vessantara nói:

– Ta sẽ y lời. Nhưng này lão bà-la-môn! Sau khi được hai trẻ rồi, lão nên dẫn chúng đến vương phụ ta. Ngươi sẽ được ban thưởng nào là ngựa, bò, trâu, vàng bạc, tôi trai lẫn tớ gái… để lão sống một đờingũ dục dư dã, hạnh phúc.

Lão Jūtaka lắc đầu:

– Không thể được, thưa Thái tử! Lão là dân đầu đường xó chợ, quần túm áo ôm; khi dẫn hai trẻ đến cung vàng hoa lệ thì ai cũng cho rằng lão là tên cướp đường, cướp rừng, cướp biển. Người thành phố cao sang thường truyền tụng câu ngạn ngữ: Người lương thiện không ai mặc áo rách! Chắc Thái tử cũng đã có nghe? Và nếu vậy, khi đức vua ghép lão vào tội ăn cắp hai trẻ, bắt tra khảo đánh đập, xử giảo, lăng trì hay treo đầu, chém cổ thì lấy đâu mà khiếu nại? Giả dụThái tử có biết thì cũng đã muộn rồi. Chẳng thể đâu, Thái tử!

Khi đức Vessantara và lão bà-la-môn nói chuyện với nhau, Jāli và Kaṇhā đều nghe rõ hết. Biết số phận của mình, hai trẻ run sợ tái xanh mặt. Như chú nai trông thấy móng vuốt của cọp beo, như hai linh hồnyếu đuối bị lưỡi hái của tử thần rượt đuổi sau lưng – hai trẻ tìm đườngtrốn thoát. Chúng ẩn trong hốc cây, sau đó, chúng lao xuống ao sen, trầm mình dưới nước, rồi lấy lá sen phủ đầu. Bốn con mắt tho lỏ như bốn con mắt nai nhìn về phía tịnh thất, lo lắng, sợ hãi.

Lão Jūtaka nhìn quanh không thấy chúng, cảm thấy bất bình, lớn tiếng nói rằng:

– Tôi đến đây áo quần lấm bụi, chưa tỏ hết lời mà Thái tử đã vui lòngbố thí cho hai trẻ. Ôi! Quả như lời đồn: Đức Vessantara, Thái tử con vua Sañjaya và hoàng hậu Phussatī, nguyện bố thíbất-nghịch-ý gia tài, vợ con và cả tính mạng đến tất cả chúng sanh. Ôi! Thật là cao cả thay! Thật là lớn lao thay tấm lòng trời bể.

Lão lại quỳ xuống đảnh lễ rồi nói:

– Muôn tâu bậc ẩn sĩ thanh tịnh! Như thế thì lão chẳng hiểu, tại sao ngài lại phải chần chờ, đợi nữ đạo sĩ Maddī về? Thái tử cho nhưng lệnh bà cản, thì phải chăng lời đại nguyện kia vẫn cứ thành tựu? Phải thế không? Lại nữa, hai trẻ trốn mất đi, nếu khôngám hiệu của cha chúng thì chúng chẳng dám nào. Lời của Thái tử vốn quý báu như ngọc vàng, như đao phá thạch, lẽ nào hôm nay trước sau chẳng như một?

Bị lão bà-la-môn sỉ nhục thậm tệ, đức Vessantara vẫn ôn tồn nói:

– Hãy bình tĩnh lại, đừng hiểu lầm! Lời ta nói ra chẳng dám coi như kim khẩu, nhưng cũng coi nặng bằng non. Để ta đi tìm hai trẻ.

Nói xong đức Vessantara nhìn quanh một hồi rồi bước đến ao sen. Hai trẻ không giấu đâu được trước sự thông minh của ngài. Hướng về hai con, đức Vessantara nói rằng:

– Này Jāli! Con yêu quý của cha! Con sinh ra trong dòng giống quý tộc, là cháu của đức vua Sañjaya oai danhlừng lẫy, là con hiếu thảo của ta! Lẽ đâu con không hiểu điều ấy để người bà-la-môn này tìm lý do để trách cứ ta? Jāli quý mến! Dòng dõi của chúng ta chưa hề bị ai sỉ nhục mà hôm nay đã bị người sỉ nhục!

Con ôi! Ta rất thương hai con, nhưng ta lại thương yêu hơn nữa là con đườngcứu khổchúng sanh. Ta thương yêu sự giác ngộ cao cả vậy.

Con hỡi! Giữa biển lớn, dẫu những kẻ thương buôn cố tìm các loại cây danh mộc để tạo những chiếc thuyền chắc chắn, kiên cố; nhưng chỉ cần bất ngờ một cơn sóng to, một cơn bão rớt – thuyền kia sẽ bị sóng đánh tan hoặc chìm sâu xuống bể cả. Những chiếc thuyền đời chẳng có gì là bền vững vậy.

Con yêu quý! Hãy nhìn thấy xa! Hãy nhìn thấy rộng! Ta với đại nguyện trong lòng làm người thuyền trưởng ra giữa biển sinh tử để độ thoát cho chúng sanh, thì hai con sẽ là chiếc thuyềnpháp kiên cốvững bền nhất. Hai con không giúp ta, thì làm sao ta thành tựu được sở nguyện cuối cùng?

Trẻ Jāli nghe lời đức Vessantara nói, cảm thấy xốn xang khó chịu trong lòng, tự nghĩ:

– Ta đây là dòng dõi cao quý, tại sao lại hèn nhát trốn núp ở đây để cho cha ta bị người mạ lị? Dẫu lão bà-la-môn tàn ác kia có đánh đập giết hại ta – thì ta cũng đừng vì vậy mà làm tổn thươngdanh dự cùng tư cách kẻ giống dòng.

Nghĩ thế xong, trẻ Jāli mạnh dạn vẹt lá sen lội lên, hôn bàn chân phải của đức Vessantara, đứng bên rồi khóc ròng. Noi gương anh, bé Kaṇhā cũng lên khỏi ao, hôn bàn chân trái của cha rồi lấm lét đưa mắt nhìn lão bà-la-môn.

Trước cảnh ấy, đức Vessantara xúc động đến chín lịm người đi. Tuy thế, sau một hồi trấn tỉnh phi thường, ngài cầm tay hai trẻ âu yếm nói:

– Jāli và Kaṇhā con ta! – Ngài đưa tay chỉ ra phía hồ – Những cây sen kia mọc từ dưới đáy bùn, chúng vươn lên ngang mặt nước, vượt lên khỏi mặt nước để trổ lá đơm hoa thơm ngát. Cũng vậy, chúng ta cũng từ những ao hồ, những đáy bùn ô trược của cuộc đời, hãy vươn lên mãi, chế ngự những bản chất và cá tính tầm thường để sau này nở thành những đóa sen cao quý, tinh khiết.

Các con hỡi! Hãy ngước mắt lên nhìn ta, và hãy tươi tỉnh và can đảm nở nụ cười, để xứng đáng là con dòng cháu giống. Các con là cái gì trân quý nhất của ta, trân quý hơn trân bảo đến muôn vạn lần. Các con nhé! Hãy vui vẻđi theo người bà-la-môn. Nếu sau này Thái Thượng Phụ có chuộc hai con, thì Jāli phải là một ngàn lượng vàng ròng, Kaṇhā thì phải hơn thế nữa, không những là một ngàn lượng vàng ròng mà còn bò sữa, bò đực, ngựa, tôi trai tớ gái mỗi thứ mỗi trăm mới tạm thời xứng giá. Và khi được trở về với Thái Thượng Phụ rồi, các con sẽ tha hồvui chơinhảy nhót. Còn bây giờ thì hãy nghe lời ta, hỡi các con hiếu thuận!

Đức Vessantara dẫn hai con về phía tịnh thất, lấy nước trong rưới lên bàn tay lão bà-la-môn, chú tâm rải lòng từ bi, phát sanh tình cảm thanh khiết, vắng lặng rồi nói:

– Hai trẻ là quả tim, là đôi mắt của ta. Này lão bà-la-môn! Vì thương yêu sự Giác ngộ, yêu thương hết thảy chúng sanh trăm phần hơn nên ta bố thí hai trẻ đến cho người. Nguyện cầu quả bố thínhân duyên cho đạo quảVô Thượng Bồ-đề!

Khi đức Vessantara trao trẻ cho lão bà-la-môn, quả địa cầu dày hai trăm bốn chục ngàn do tuầnchấn động mãnh liệt. Sóng ở biển đột ngột dâng cao, vỗ giữa hư không ì ầm không ngớt. Chư thiên nhìn nhau kinh sợ. Trời Đế Thíchnóng nảy ngồi đứng không yên.

Lão Jūtaka vừa được hai trẻ, đã nói:

– Lão già cả sức yếu, nếu hai trẻ bỏ chạy thì lão làm sao đuổi kịp? Xin Thái tửlòng từ tâm, vì lời nguyệnvô thượng, trói hai trẻ giùm lão!

Đức Vessantara với lòng nhẫn nhục cao độ, trói hai trẻ giao cho lão bà-la-môn. Được chúng rồi, lão nắm mạnh đầu dây lôi đi. Được vài bước, hai trẻ trì lại, lão quay ngược gậy đánh cho mấy hèo. Hai trẻ khóc, lão lại thẳng tay đánh nữa; vừa đánh vừa chửi, không chút vị nể:

– Trước đây, lũ chúng bay là giống dòng quý tộc cao sang, nhưng giờ đây là tôi tớ lão, ỷ thế gì mà cứng đầu, ngoan cố hả? Lão sẽ đánh cho bò lê bò càng ra, đồ khốn kiếp!

Thảm thương cho hai trẻ, nước mắt tuôn rơi như mưa, đưa đôi mắt khẩn cầu nhìn cha chúng. Đức Vessantara quay lưng giấu nỗi xúc động. Lòng như từng đợt sóng trào lên rồi chìm xuống, ngài cứ để tâm trú vào bản chất rỗng không của pháp, hồi lâu ngài tìm được sự yên tĩnh của mặt hồ. Trong khi ấy có một vị Dạ-xoa định thò tay bóp cổ lão bà-la-môn, nhưng một vị trời đã ngăn lại, nói rằng:

Đế Thích thiên vương còn tức giận lão kia hơn nữa kìa, nhưng hãy để yên, đừng tham dự vào sở nguyện ba-la-mật của đức Vessantara!

Trẻ Jāli đưa mắt nhìn vào tịnh thất:

– Cha ơi! Sao cha nỡ lòng nào để lão Jūtaka bà-la-môn đánh đập chúng con? Cha ơi! Sao cha đành bỏ chúng con để cho lão già khốn kiếp, hèn hạ này lôi kéo chúng con đến trầy da tươm máu? Buổi sớm vào non hái trái, mẹ con đã phó thác hai con cho cha như thế nào, cha quên rồi ư? Hãy vì chút tình phụ tử mà cứu chúng con, cha ôi!

Hai trẻ càng khóc la bao nhiêu, lão bà-la-môn càng đánh đập bấy nhiêu. Đã gãy một cái gậy, lão tìm cái gậy khác. Hai trẻ đau quá, bò dưới đất, năn nỉ xin tha mà lão bà-la-môn tấm lòng sắt đá dường như chẳng biết xót thương là gì!

Lão Jūtaka nghiến răng, đanh mặt lại:

– Tụi bay đừng tưởng con vua cháu chúa mà xấc xược khinh người. Tao sẽ đánh tụi bay như đánh những con chó hoang.

Rồi lão lại giáng gậy như mưa bấc, chẳng khác gì một trận đòn thù. Jāli trườn mình tới, đỡ đòn cho em. Một sức mạnh từ đâu không biết, nó đứng bật dậy:

– Này lão già khốn nạn! Nếu lão còn là giống người, đủ can đảm thì hãy đánh ông đây! Sao lão cứ đánh mãi em ta? Nó là gái yếu đuối, đâu chịu nổi cánh tay thú vật của ông? Thật là hèn hạ bỉ ổi!

Lão Jūtaka không giận mà lại cất tiếng cười quái gở. Những trận mưa đòn gậy lại ập xuống trên lưng, trên đầu, trên cổ Kaṇhā.

Lại kể lể:

– Bọn bây ngon lắm! Lá ngọc cành vàng ghê gớm lắm! Sung sướng quen rồi. Lão đây thiếu cơm thiếu áo, canh cặn cơm thừa, bị khổ sở suốt cả một cuộc đời khốn nạn. Bọn bây mới bị đánh đập một chút ít thì cũng chưa sao!

Jāli ôm Kaṇhā đã ngất lịm đi vì đau đớn. Nó cắn răng chịu đòn thay em. Thương thay, thân thể rướm máu, môi bật máu mà linh hồnchúng dường như cũng rỉ máu:

– Em ơi! Cha chúng ta đã thật sự bỏ chúng ta rồi. Điều này mới chính thậtđau đớn hơn. Mẹ ơi! Mẹ ở đâu? Hãy cứu chúng con, mẹ ơi! Ôi! Đau quá! Vĩnh biệt cha! Vĩnh biệt mẹ!

Đức Vessantara ở trong tịnh thất. Mặt hồ đang yên lặng, sóng lại cuộn trào lên. Lần này thì trào lên dữ dội hơn bao giờ. Cứ mỗi tiếng roi vọt, mỗi tiếng kêu la, mỗi lời than thở của trẻ là ngài lại thốn đau, tim thắt lại, ruột gan như bị lửa nung đốt. Thế là một ác niệm khởi lên. Ác niệm kia lớn dần, mạnh dần dường như không kìm hãm nổi. Tuy nhiên, đức Vessantara lại chiến thắng, nhờ ngài nghĩ đến chư Phật trong quá khứ đã từng móc gan, móc ruột, cắt tim, khoét mắt mình để cứu chúng sanh. Ngài lại còn nghĩ đến con đườngGiác NgộVô Thượng, đến sự luyến ai buộc ràng là nhân của trầm luânsinh tử. Hồi lâu, tâm đức Vessantara lại trở nên yên lặng, yên lặng rất sâu. Sắc mặt ngài đã trở nên khoan hòa, mát mẻ.

Lão bà-la-môn đã dẫn hai trẻ đi xa được một đoạn đường. Cứ mỗi lần hai trẻ đi chậm hoặc chính lão bị vấp té là lão quay lui đánh chưởi vô hồi kỳ trận.

Jāli ngước mắt lên trời than:

– Cao xanh hỡi cao xanh!

Kiếp trước nhân chi, nghiệp phải đành?

Xót dạ, con đi, sầu chín khúc

Đau lòng, mẹ ở, lệ năm canh

Thương em gầy yếu đời gai góc

Nhớ mẹ đơn côi, kiếp lạnh lùng

Tổ ấm hàn ôn, giờ vĩnh biệt

Phương người, chôn kín bóng song thân!

Chư thiên khắp núi rừng Grivaṅka thảy đều ngậm ngùi sa lệ…

Trong lúc ấy, tại rừng sâu, nàng Maddī trong lòng quặn thắt, đi tới đi lui, xốn xang, bứt rứt không yên. Nàng chẳng hái được bao nhiêu trái cây trong suốt buổi sáng. Nàng không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì, chỉ biết ruột xé tợ dao bào. Mới chia tay hai con mà tưởng chừng như đã lâu lắm, nàng chợt sợ hãi đến lạnh người khi nghĩ rằng: Sẽ không còn nhìn mặt hai con được nữa!

Ôi! Sợi dây mẫu tửthiêng liêng tưởng như vô hình nhưng mà nó hiện hữu mãnh liệt xiết bao! Ngay chính khi Jāli gào kêu, cầu cứu mẹ đến khản giọng – thì nàng nóng nảy, bươn bả bỏ rừng tìm về. Chư thiên thấy và biết mọi sự, sợ nàng không chịu nổi tình trạngthê thảm của hai con, có thể kinh động, gây trở ngại cho tâm nguyện của Thái tử – nên theo lời dạy của trời Đế Thích – họ hiện rasư tử, cọp, beo nằm chặn tất cả các con đường.

Nàng Maddī trở về ngã nào cũng gặp ác thú, chẳng biết sao hơn, đành chấp tay khấn vái vô cùng tha thiết. Chư thiên tuy cảm động lắm, nhưng chỉ đợi lúc hai trẻ đã đi xa, họ mới không ngăn nàng nữa. Về đến tịnh thất vắng hoe, nàng kêu hai con đến rát cổ mà chẳng nghe lờiđáp lại. Tóc tai rối bù, y áo nhàu nát nàng chạy từ hốc cây này qua kẹt đá khác, sục sạotìm kiếm.

– Jāli! Kaṇhā! Hai con yêu quý của mẹ! Hai con ở đâu?

Tiếng vọng dồn dập, nghẹn ngào của nàng chỉ có núi rừng vọng lại.

Đức Vessantara nghĩ:

– Nàng đã về. Không có hai con, nàng có thể sinh ra điên cuồng, quẩn trí. Hãy để cho tâm nàng lắng lại, ta sẽ nói.

Ngoài kia, tiếng gọi của nàng Maddī càng lúc càng thê thảm:

– Jāli hỡi! Kaṇhā hỡi! Hai con ở đâu? Ôi! Có tai nạn ác nghiệt nào xảy đến cho hai con tôi rồi. Trời xanh ơi! Cao xanh ơi! Sao tôi khổ thế này?

Tiếng gọituyệt vọng của nàng vang vang từ cánh rừng này qua cánh rừng khác, hồi lâu lại trở về bên cửa tịnh thất của đức Vessantara. Người nàng bây giờ đã kiệt lả ra, như cái xác vô hồn.

– Hai con tôi đâu? Xin Thái tửcho biết là hai con tôi đâu? Hai trái tim và mạng sống của tôi giờ ở đâu?

Hỏi đến lần thứ ba, đức Vessantara vẫn im lặng. Nàng lại khóc, kể lể:

– Chàng ôi! Mỗi lần thấy tôi về từ đằng xa thì chúng đã ríu rít, líu lo như sáo cưỡng. Trẻ Jāli hôn bên bàn chân phải, trẻ Kaṇhā hôn bên bàn chân trái. Tôi ẵm chúng trong tay. Tôi cười, chúng cười. Đứa chạy trước, đứa chạy sau lúp xúp mới dễ thương làm sao! Ôi! Tôi nhớ Jāli có một vết thương nhỏ xíu trên má trái vì cỡi chú ngựa rừng tí hon bị té. Trẻ Kaṇhā có bắp chân tròn mũm mĩm với rất nhiều nốt ruồi son. Tưởng nó là tướng đại phú quý! Chúng vây quanh giỏ trái cây, bảo trái này là của cha, trái này là của mẹ. Chúng đội hoa trên đầu, quàng hoa trên cổ, tung tăng trên lối cỏ xanh ra bờ suối, đến ao sen. Ôi, biết bao tháng ngày quạt nồng ấp lạnh. Chúng đau là tôi đau. Chúng vui là tôi vui. Vắng bóng chúng là tôi vắng mặt trời, là tâm hồn tôi tối tăm lạnh lẽo! Ôi! Chàng ôi! Giờ chúng ở đâu? Sao chàng không nói một lời?

Đức Vessantara nghĩ: Niềm đau khổ của nàng đã bắt đầu giảm bớt. Ta hẳn đợi một lúc nữa, khi tâm hồn nàng đã hoàn toàn lắng dịu, ta sẽ nói!

Nàng Maddī đã hơi tỉnh táo:

Phu quân kính mến! Dẫu hai trẻ có bị ác thútrở chứng làm hại, dẫu hai trẻ có bị tai họa nguy hiểm chừng nào, thì phu quân cũng cứ cho thiếp biết. Sự im lặng của phu quân làm cho thiếp đau khổ hơn là mất hai con nữa. Phu quân ơi! Hãy nói với thiếp một lời!

Đức Vessantara bây giờ mới mở mắt ra.

– Maddī yêu quý! Bây giờ nàng đã bình tĩnhsáng suốt rồi. Ta báo cho nàng hay là hai con ta không bị ác thú làm hại, không có bị tai nạn chết người đâu. Nàng hãy an tâm.

Nàng Maddī ngồi bình tĩnh, chờ đợi lắng nghe.

Đức Vessantara tiếp:

– Thấy nàng đau khổthái quá khi vắng bóng hai con nên ta chưa thốt ra lời đó thôi. Nàng hỡi! Ta biết tình mẹ thương con như thế nào, và tình ta đối với hai con cũng sâu đậm lắm, nhưng tuyệt đối không thể so sánh được với nàng. Hai trẻ, vì đại nguyệnbố thí bất-nghịch-ý, ta đã cho đến người rồi. Hãy bình tĩnh. Hãy bình tĩnh!

Nàng Maddī lặng người đi rất lâu, nước mắt đã khô chảy.

Đức Vessantara lại nói:

– Ta yêu quý nàng. Ta yêu quý hai con. Nhưng đối với chúng sanhtrầm luânđau khổ ta lại rất tha thiết đi tìm phương thuốc cứu độ. Chư Phật quá khứ thường như thế. Mất nàng, mất hai con, ta có thể chết được, nhưng dẫu sao, cũng chỉ chết một đời. Nhưng mất cơ duyênđại giác, đời chúng ta sẽ chìm đắm trong bóng tối mãi mãi. Nàng hỡi! Hãy giúp ta! Hãy tiếp sức với ta trong tình thươngthanh khiết này. Ấy là tình thương của bờ kia, tình thương không hệ lụy, buộc ràng; tình thương không phân ly và nước mắt. Nàng đã phát nguyệntùy thuận với ta, đi theo một con đường, thì nàng hãy cho ta đạt thành sở nguyện chứ? Có bao giờ ta dám dối nàng hoặc hết yêu thương nàng và con để trở thành gỗ đá vô tri? Chính đạo quả Vô Thượng Bồ Đề mới nói lên ý nghĩatình thương chơn chánh ấy. Maddī nàng hỡi! Nàng nghe rõ những điều ta vừa nói đó chứ?

Nàng Maddī ngước đầu lên, đôi mắt còn đỏ hoe:

– Nghe rõ! Nghe rõ từ trong chỗ sâu xa nhất của trí não, thưa phu quân! Từ lâu, thiếp chỉ nghe bằng trái tim nên thiếp đã sai lầm. Thiếp đã có hứa cùng chàng thì đâu có thể thay đổi được. Tuy thế, nghiệp chướng của nữ nhân vốn nặng nề về luyến ái, dẫu đồng ý với chàng nhưng vẫn còn đau đớn lắm. Xin phu quân xá tội cho.

Đức Vessantara gật đầu:

– Ta đâu dám trách nàng điều chi? Nàng cũng không có tội gì. Tình mẫu tửthiêng liêng là một tình cảm đáng trân trọng. Tuy thế, nàng cũng phải hiểu rằng, đấy là nhân của tử sinhđau khổ. Bây giờ, nàng đã chiến thắng, nàng đã bước ra khỏi cái thế tình. Nàng đã không phụ lòng ta, nàng đã không hổ thẹn với chư Phật. Bánh xe xuất thế, nhờ nàng đã bắt đầu chuyển nhịp. Quả đất đang rung động đó, nàng có biết không? Chư thiên đang tán thán, ca ngợi nàng làm rung rinh mấy tầng không gian lớn rộng, nàng nghe rõ không?

Những lời đúng đắn, phải lẽ kia như viên thuốc hồi sinh; tình cảm, lý trí và sự sống nơi nàng Maddī đã bắt đầu máy động. Khuôn mặt ngọc giờ đã ráo lệ, nàng Maddī bất chợt nở nụ cười. Nàng đang cố gắng tìm sự bình an trong trạng thái tình cảm trong sángvắng lặng

Ngay khi ấy, một đạo sĩnghiêm trang, dung sắc tốt đẹpvô cùng, xuất hiện trước tầm mắt hai người. Đạo sĩ choàng áo da thú, to lớn, chững chạc, trầm tĩnh như chúa sơn lâm vừa bước ra khỏi động báu. Môi mỉm nụ cười hoa sen, đạo sĩ nói:

Tốt đẹp thay là đời sống của một bậc ẩn sĩ thanh tịnh! Tốt đẹp thay là kẻ viễn lyđô thị, sống đời phạm hạnhxuất ly chiếu sáng như trăng sao! Tốt đẹp thay là người có giới đức như viên ngọc Ma-ni không tỳ vết! Hỡi bậc đại ẩn sĩ! Tôi kỉnh mộ và tịnh tín ngài! Tôi chúc mừng ngài với tất cả những gì thiện hảo nhất!

Đức Vessantara và nàng Maddī ngạc nhiên đến sửng sốt. Sự xuất hiện đột ngột, ngôn ngữ lưu loát, dung nghi và cốt cách long phụng của đạo sĩtỏa ra ánh sáng khác phàm. Đức Vessantara nghiêng mình đáp lễ rồi nói rằng:

– Hỡi người tu hành khả kính! Mà, mặc y phục bằng da thú là nhân sanh thiện giới của nhiều kiếp vị lai! Cảm ân sự mến mộ của người. Chẳng hay người từ phương nào lại, muốn chỉ giáo tôi điều gì? Hoặc tôi có thể giúp đỡ gì được cho người? Nhưng trước tiên, xin người hãy tắm rửa, rồi tạm dùng các vật thực cây trái có sẵn. Tất cả đều đầy đủ, thơm ngon và tinh khiết. Người hãy tùy nghisử dụng. Tất cả là của người.

Vị đạo sĩ nghiêng thân nói:

– Hỡi bậc đại ẩn sĩ quý trọng! Trước sự chân tình và lòng hảo tâm của người, ta đã lĩnh ý. Và coi như ta đã thọ dụng rồi vậy!

Đức Vessantara tự nghĩ: Người này, kẻ này – dung nghi sáng rỡ như một đóa hoa ở cõi trờichắc chắn không phải là hạng đạo sĩ tầm thường! Y đến đây để dạy bảo ta? Thử thách ta? Hay là sẽ xin ta cái gì trân quý nhất? Bèn gợi ý:

– Ngàn dặm đường xa tới chốn thâm sơn cùng cốc này, chắc chẳng phải ngài chỉ có bấy nhiêu lời thiện cảm và đầy khách sáo? Phải có lý dochính đáng mới làm cho ngài mất công phu và thì giờ? Hỡi đạo sĩ với phẩm cách cao thượng và thoát tục, ngài hãy nói đi và ta xin nghe!

Đạo sĩmỉm cười khó hiểu:

– Ta đâu dám đến đây để dạy bảo ngài điều gì! Ta cũng chẳng có gì thắc mắc để làm bận tâm bậc tu hành khả kính! Mục đích của ta là đến xin một vật trân quý nhất của ngài thôi!

Đức Vessantara thật lòng nói:

– Tiếc thay, ngài đến muộn mất rồi! Trước đây hằng muôn xe vàng bạccủa cải, ta đều cho đi hết sạch. Những thứ trân quý như bảo châu, anh lạc, hổ phách, mã não, xa cừ… ta cũng đã bố thí hết cho lê dân

– Đối với ta, những thứ ấy chẳng phải là trân quý đâu!

Đức Vessantara lại một lần nữa ngạc nhiên:

– Cho chí ngôi vương ta cũng không còn bịn rịn. Hai đứa con ta, hai hoàng tôn vô giá, ta cũng đã bố thí đến cho người!

Đạo sĩmỉm cười:

– Ta chỉ muốn một thứ quý hơn, cao sang hơn tất cả những thứ mà ngài vừa kể.

Đức Vessantara lạ lùng nhìn đạo sĩ, một lát, ngài cũng mỉm cười:

Vậy thì ta chỉ còn cái cốc tranh, nước lã, cây trái cùng tệ phụ nhân!

Đạo sĩ nói:

– Cốc tranh, nước lã, cây trái… thì ở đâu mà chẳng có!

Đức Vessantara chợt hiểu:

– A! vậy thì phu nhơn của ta, chẳng hay người muốn ta bố thí chăng?

– Phải rồi! Chỉ có nàng mới đáng gọi là trân quý đối với ta!

– Nhưng ngài là kẻ tu hành – đức Vessantara nói – là sống đời phạm hạnh, có lẽ nào…?

– Còn Ngài thì sao? – Đạo sĩmỉm cười hỏi – Ngài không là kẻ tu hànhphạm hạnh sao? Rồi giọng đạo sĩ chợt trang nghiêm – Ta cần một người đàn bà thủy chungđức hạnh, mà hương thơm tỏa ra còn tối thượng hơn cả già-la-hương, chiên-đàn-hương! Ngài có giúp cho ta được như nguyện chăng? Bậc đại ẩn sĩ có dám cho ta viên bảo châuvô giá đó?

Biết đạo sĩnói thật, đức Vessantara không còn hoài nghi nữa; khẽ cầm tay nàng Maddī – lúc ấy, sắc mặt nàng không có ý phản đối – lấy nước rưới lên tay đạo sĩ, rồi trao nàng tận tay ông ta:

Viên trânchâu bảo ngọc này còn là trái tim, hơi thở và mạng sống của ta, bây giờ là của ngài.

Lại ân cần nói với nàng:

– Đối với ta như thế nào thì với đạo sĩ, nàng cũng phải như vậy.

Nàng Maddī kính cẩn nói:

– Thiếp bây giờ do tâm ý chàng mà sanh ra, do tâm ý chàng mà tác thành và hiện hữu! Là hình ảnh, là con thuyền vững bền của chàng để đi đến nơi bến giác xa xăm!

Cả ba người lúc ấy thảy đều mát mẻ.

Quả địa cầu rung động. Thiên âm giữa hư không, hốt nhiên đọc bài kệtán thánhy hữu:

“- Của cải tuy quý,

Nhưng thoắt đến thoắt đi

Vàng bạc, ngọc ngà tuy quý

Nhưng chỉ như màu sắc của mây;

Sự lộng lẫy của bong bóng nước!

Con cái tuy quý,

Nhưng đứa khác sẽ sinh ra!

Còn người vợ mỹ miều và đức hạnh thì,

Thắp đuốc đi tìm trên thế gian

Nào có dễ đâu!

Thế mà đức Vessantara

Có thể dứt bỏ luyến ái dễ dàng

Như cắt núm ruột mình

Ném cho loài phi điểu

Ôi! Hy hữu thay là hạnh khó làm!”

Vị đạo sĩ nhận nàng Maddī, khoan thai bước đi. Được bảy bước, đạo sĩtrở lại, trao nàng tận tay đức Vessantara.

Đức Vessantara ngạc nhiên hỏi:

– Nàng Maddī, viên trân châu vô giá của ta, không vừa ý, đẹp lòng ngài sao? Chẳng hay nàng có khiếm khuyết gì về sắc đẹp và đức hạnh?

Đạo sĩmỉm cười lắc đầu:

– Không! Toàn hảo! Nàng là người đàn bà toàn hảo trên thế gian mà ta tìm thấy. Dẫu trong quá khứ, hiện tại hay vị lai cũng chưa có ai bằng nàng, huống nữa là hơn nàng!

Nói thế xong, hốt nhiênđạo sĩ bay lên giữa hư không, hiện thành vị trời với đai áo mũ miện cẩn ngọc dát vàng, lộng lẫy chiếu sáng cả khoảng không gian lớn rộng. Đức Vessantara và nàng Maddī chưa kịp ngạc nhiên, thì đạo sĩ đã nói:

– Hỡi này bậc ẩn sĩ khả kính! Sự bố thí ba-la-mật của ngài đã thành tựu. Ta chính là Đế Thích thiên vương, xuống đây cốt để thử lòng ngài, có đang tâm bố thí vật khó bố thí, xả ly vật khó xả ly, dứt ái luyến buộc ràng với người vợ hiền đoan trang, đức hạnh. Ôi! Cao cả thay! Đức Vessantara đã làm được! Ôi! Tối thượng thay là kỳ tích hy hữu!

Đức Vessantara cùng nàng Maddī như rơi vào giấc mộng.

Trời Sakka lại nói:

– Với oai lực của Chúa chư thiêncõi trời Ba Mươi Ba, ta hằng giúp mong muốn, sở nguyện đến cho những ai kiên trì và dõng mãnh đi theothiện pháp. Vậy này hỡi Thái tử con vua Sañjaya và hoàng hậu Phussatī, cũng vậy, người hãy nói lên bốn điều sở nguyện, ta sẽ thành tựu cho.

Biết đây là vị trời có rất nhiều oai lực, ngài đã nói được, tất làm được. Ngẫm nghĩ giây lâu, đức Vessantara nói:

Chúng sanh ở cõi Ta-bà này hằng sống trong cảnh lo sợ hãi hùng vì chiến tranh, chém giết, hận thù, oan trái… Lại bị nạn nước, nạn lửa, cảnh sinh ly, từ biệt… Rồi cái bệnh, cái chết, cái nghèo đói lúc nào cũng như chiếc lưỡi hái của tử thần chực sẵn trên đầu. Vậy thì xin đức Đế Thích, vị trời chúa của những vị trời, mà oai lực bao trùm cả bốn châu thiên hạ, hãy cho tôi thành tự sở nguyện đầu tiên: Làm sao cho chúng sanh hằng thoát khổ được vui, hạnh phúcan lạcđời đời kiếp kiếp!

Trời Sakka thốt lên:

– Ôi to lớn thay là ước nguyện của bậc đại chúng sanh! Vĩ đại thay là lòng từ của bậc chí nhân, chí thiện. Nhưng điều này ở ngoài uy lực của ta mất rồi. Ta chịu thôi. Hãy nói lên lời ước nguyện khác.

Đức Vessantara thở dài, trầm ngâm chốc lát, lại tiếp:

– Biết bao cảnh con giết cha, vợ giết chồng! Cương thườngđạo lýthế gian càng lúc càng thoái hóa. Lại nữa, chúng sanh hiện đang hăng say vào những việc làmtội lỗi như cướp của, giết người, tham dâm, ác độc, dối trá… Lời dạy của đấng đại hiền, của thánh triết, minh thư, chúng coi như đống giấy vụn, chúng bảo là vì cái đó không đem lại áo cơm, chẳng có lợi ích gì thực tế! Than ôi! Thần đã khóc, quỷ đã khiếp vì sự bạo tàn và hủy diệt lương tri của sinh chúng thời nay. Vậy thì xin đức Thiên Vương cao cả, với uy lực của ngài: Làm sao cho chúng sanh thấy rõ nhân quả, tội phước – để chúng tự ngăn mình, hoặc làm nên các thiện sự hữu ích cho chúng lâu dài về sau.

Trời Sakka lại thốt lên:

– Ôi! Kỳ diệu thay là ước nguyện của một chúng sanh hữu tìnhưu việt và tối thắng! Ôi! Sáng suốt thay là ước nguyện của vị Phật thời hậu lai! Nhưng thưa Thái tử! Ta là gì mà dám có oai lực vượt ra ngoài oai lực của ta? Tầm vóc của ước nguyện kia còn lớn hơn mười muôn triệu núi Tu Dikết hợp lại. Ta cũng nhờ chút phước lành trong quá khứ, do làm các thiện sự không biết mệt mỏi, nên được ngồi trên đầu một ngọn sóng, giữa vô lượng đợt sóng nhấp nhô chìm nổi của đại hảinhân quảnghiệp báo đó thôi! Ôi! Đức Vessantara hỡi! Hãy nói lên lời ước nguyện khác!

Đức Vessantara thấy cả hai ước nguyện tha thiết và chân thành nhất của mình mà vị trời nhiều oai lực kia cũng không thành tựu được; chẳng biết sao hơn, tự nghĩ: Hay là ta xin những ước nguyện, mà từ đó, ta có thể dùng làm phương tiệntốt đẹplâu dài cho Đạo quảVô Thượng Bồ Đề, bèn nói:

Vậy thì điều thứ nhất: cho ta được trùng phùng phụ tử, thân tộc; kế vị ngôi vương để có cơ hội trị vì quốc độ theo chánh pháp.

Trời Sakka hoan hỷ đáp:

– Điều đó được. Rồi ngài sẽ được như nguyện.

– Điều thứ hai: Khi ta làm vua thì của cải, bạc tiền, châu báu hằng có đủ, để ta giúp ích sự ấm no đến cho tất cả mọi người!

Trời Sakka lại gật đầu:

– Ta sẽ cho ngài dư thừa về tài sản. Ta sẽ trút xuống một trận mưa bảy báu tràn ngập cung điện của ngài.

Đức Vessantara lại nói:

– Điều thứ ba: Từ Thái Thượng Hoàng, các quan đại thần, bá tánh, ai ai cũng hoan hỷthọ trìgiới luật, đừng ngỗ nghịch chống đối hay phỉ báng các thiện sự!

– Ta sẽ lệnh cho chư thiênquốc độ ngài, hộ trì cho ngài, muôn dân cùng bá tánh; trừng trị kẻ ác đức, nâng đỡ người hiền lương – tạo cho chúng thuận thảo với bạch pháp!

– Điều thứ tư: Trí tuệtừ bi trong ta hằng có đủ, không bao giờ bị che lấp, không mệt mỏi với lợi ích chung, tinh tấnmãi mãi trên con đườngVô Thượng Bồ Đề!

– Rất tốt – trời Sakka nói – Ta sẽ tìm cách khuyến khích và nhắc nhở ngài. Tất cả bốn điều ước nguyện của Ngài sẽ được viên mãn như ý!

Sau khi hứa khả thi những sở nguyện của đức Vessantara, trời Đế Thích biến mất giữa hư không trong nháy mắt, trở vềĐao Lợi Thiên Cung.

 

Suốt gần một ngày lão bà-la-môn chưa đi ra khỏi dãy núi Grivanka hùng vĩ. Lại thêm hơn hai ngày đêm nữa lão mới tới được chân núi Gandhamādana, vì lão cố ýtìm đường lẩn tránh tên chúa thợ săn hung ác! Hai trẻ thân thể đã rách như xơ mướp, lếch thếch khóc la thảm thiết mà lão bà-la-môn vẫn cứ lối kéo bừa đi còn tệ hơn con vật. Lão đã nổi thú tính mất rồi!

Đêm xuống, giữa chốn rừng già thâm u ghê rợn, khi muông thú xuất hiện đó đây, lão bà-la-môn sợ hãi đến dựng tóc gáy. Lão lấy dây cột hai trẻ ở gốc cây rồi leo lên một nhánh cao to ẩn trú qua đêm, tự nghĩ: “Ác thú mà có tới đây, hai miếng mồi kia sẽ đủ no thịt, chúng sẽ bỏ đi. Ôi! Ta là vị Phạm Thiênan toàn và khôn ngoan hết mực!”

Hai vị trời trú ngụ ở nơi này, bực mình lão bà-la-môn ác độc, lại cảm thươngtình cảnh hai trẻ, đợi khi lão đã ngủ, bắt lão trói lại bỏ dưới gốc cây, ẵm hai đứa trẻ lên cây, cho nằm trong chiếc võng của cung trời. Suốt đêm, cả hai vị trời này thay phiên nhau ru ngủ, vỗ vềan ủi chúng, cho uống thuốc, xức các vết thương, cho ăn những thực phẩm bằng các tinh hoa ngon bổ. Sáng ngày, thay đổi vị trí xong, họ biến mất.

Hai trẻ thức dậy, thấy các vết thương trên người đã lành lặn hẳn, cơ thể khỏe khoắn lạ thường. Lại nhớ mường tượng như chúng được ngủ ấm cúngtrong vòng tay của hai bà tiên đẹp đẽhiền lành. Chúng ngẩn ngơ luyến tiếc. Lão bà-la-môn trái lại, tự nghĩ: Sao ta ngủ trên cây mà người lại nhuốm đầy bụi bẩn? Lại nữa, dường như có kẻ trói ta lại, vùng vẫy chẳng được làm cho cơ thể đau đớnmệt mỏi lạ thường?

Thoáng nhìn hai trẻ, lão ngạc nhiênhết sức. Qua một đêm sao chúng hồng hào tươi nhuận đến thế? Còn các vết thương sưng tím, giấu máu lở loét nơi chúng, biến đâu mất rồi?

Vừa bực mình, vừa ganh tỵ, lão thô bạo kéo bừa hai đứa trẻ đi, lại đánh, lại chửi. Lạ lùng sao, bây giờ chúng không còn thấy đau đớn nữa. Trong giấc ngủ, hai bà tiên đã cho chúng uống thuốc gì mà kỳ diệu đến thế? Đánh đập hoài cũng mỏi tay, hơn nữa, dường như lão không còn hơi sức. Giờ đây, lão lầm lũi lên đường. Ròng rã ngày đi, đêm nghỉ, màn trời, chiếu đất, lão bà-la-môn cũng về được quê nhà. Suốt khoảng thời gian này, mặc dầu hai trẻ bị trói, nằm bờ, bỏ bụi – nhưng thường được các vị trời hảo tâm chiếu cố, săn sóc cho ăn uống, chỗ ngủ, thuốc men, nên hai trẻ chẳng biết mệt mỏi là gì; dường như chúng lại mạnh khỏe tươi đẹp thêm là khác. Lão bà-la-môn kinh ngạc, mắng thầm: Cái giống dòng gì mà kỳ lạ! Bỏ đói, bỏ khát, ngủ hố, nằm đất mà vẫn đẹp đẽ như con trời!

Đến nhà, nàng Amittadā tò mò nhìn hai trẻ cốt cáchquý phái, siêu phàm, hỏi chồng:

– Hai quý tử này ở đâu?

– Là dòng hoàng tộc – Lão Jūtaka kiêu hãnh đáp – Là con đức Vessantara thành Jetuttara!

Nàng Amittadā giẫy nẫy lên:

– Trời ơi! Con đức Vessantara? Kẻ có lòng từ bi cao cả, bố thí hết của cải bạc vàng, cả voi báu, rồi vua cha đày vào rừng Grivaṇka?

– Chính thị! Lão bà-la-môn gật đầu.

Nàng Amittadā giận dữ, xỉa xói vào mặt chồng:

Vậy thì hãy tức tốc đem trả lại. Tôi cấm ông đụng đến cái sợi lông chân của chúng. Trời ơi! Người ta chỉ còn hai trẻ, là bạn cơ hàn, là quả tim, là chỗ an ủi náu nương, mà ông nỡ lòng nào cắt lìa đành đoạn? Thật ông không phải là giống người, còn tệ hơn sài lang, hổ báo. Sao ông không ngoảnh lại nhìn ông xem? Chúng ta là gì mà đem hai đức hoàng tôn cao quý kia về làm tôi tớ hầu hạ? Rồi ông sẽ bị quả báo bể bụng, vỡ đầu ra mà chết, tôi nói cho ông hay!

Nàng Amittadā dẫn hai trẻ đi tắm rửa, thay y phục, cho ăn uống, ngủ nghỉ vài hôm rồi bảo lão bà-la-môn đem trả về kinh đô Jetuttara. (Kinh văn ghi là: Vì lời nguyệntrùng phùng phụ tử, thân tộc của đức Vessantara – mà trời Đế Thích xúi nàng Amittadā trở mối thiện tâm).

Lão bà-la-môn Jūtaka thờ Amittadā như thờ vị trời ở trong nhà nên sợ hãi mang hai trẻ đi ngay. Lần này, lão săn sóc cho hai trẻ từ cái ăn, cái uống, chỗ ngủ, chỗ nghỉ suốt dọc đường thật chu đáo. Và luôn miệng xin lỗi hai trẻ bỏ qua cho!…

Hôm kia, vua Sañjaya nằm mộng, thấy một lão mặt đen ốm nhom, cầm hai hoa sen mới nở vào bệ rồng, cung kính dâng đức vua. Vui mừng, đức vua đeo lên hai tai. Hoa sen rơi xuống tỏa mùi thơm ngào ngạt. Vua giật mình tỉnh giấc.

Điềm triệu được kể lại, một thầy bà-la-môn đến sụp lạy, tâu rằng:

– Mừng bệ hạ sẽ được trùng phùng với các hoàng tôn xa cách lâu ngày.

Từ khi vua Sañjaya đày Thái tử vào rừng sâu, ngài nhớ nhung héo mòn tất dạ, ngủ không yên, ăn không ngon. Những khi đông hàn tuyết rơi, trong cung ấm, nằm ngủ đệm dày chăn bông mà đức vua còn cảm thấy không chịu nổi. Xót thương cho Thái tử, vợ cùng hai hoàng tôn màn trời chiếu đất nơi núi thẳm, rừng sâu. Lại nữa, ở cung đình thì sống đời vương giả, ngày đêm tiếng ca lời nhạc, thức ngon vật lạ thừa thãi – còn ở chốn nước độc, non thiêng, kẻ lưu đày nào có thứ chi? Càng nghĩ, đức vua lệ càng rơi tầm tã, ăn năn, hối hậnvô cùng.

Về phần hoàng hậu Phussatī thì dường như trầm trọng hơn; Thái tử và các cháu đi bà không còn thiết tha gì nữa cả. Chỉ một thời gian ngắn là bà lâm bệnh võ vàng, thuốc thang không chữa được tâm bệnh.

Thầy bà-la-môn đoán mộng, chẳng khác chi cho đức vua và hoàng hậu một liều thần dược, cả hai tươi tỉnh lại. Đức vua cho thắng ngựa đi dạo chơi ở ngoại thành. Hôm ấy, lão bà-la-môn Jūtaka cũng vừa dẫn hai trẻ tới nơi.

Nhìn hai đứa bé đi với lão bà-la-môn, đức vua kêu quan hầu lại:

– Này khanh! Khanh nhìn thấy chúng chứ? Ôi! Cả hai trẻ đều sáng rỡ, khôi ngô, xinh đẹp. Trai thì giống Jāli, gái thì đúng là Kaṇhā rồi! Tướng mạo ấy thì rõ là dòng quý tộc cao sang. Nhìn kia! Cả hai đều đi đứng nghiêm trang, cốt cách như hai sư tử con. Nhìn kìa! Diện mạo hai trẻ như vàng ròng óng ánh, mà, chúa thiên nga cũng không thùy mị, rực rỡ đến như vậy!

Đức vua biết đúng là hai trẻ, bèn trở lại cung điện, cho gọi lão bà-la-môn cùng hai trẻ vào chầu.

Cố gắng trấn tỉnh cảm xúc, không nhìn hai trẻ, đức vua hỏi:

– Này lão bà-la-môn! Hai trẻ này từ đâu mà lão dẫn đến đây? Hãy nói thật, trẫm sẽ ban thưởngtrọng hậu.

Lão Jūtaka dập đầu lạy:

– Muôn tâu bệ hạ! Là con của đức Vessantara, là hai đấng hoàng tôn cao quý của bệ hạ. Đức Vessantara vì đại nguyệnbố thí bất-nghịch-ý nên đã cho hai trẻ đến hạ thần.

Vua Sañjaya biết là đúng như vậy, nhưng cũng giả vờgiận dữ, vỗ long ngai:

– Hay cho ngươi đã xảo ngôn, lộng ngữ! Hai trẻ quý phái cao sang như rồng như phượng kia, ai lại đem cho đi? Hãy khai thật! Nếu trẫm xét thấy có điều dối trá, sẽ xét theo luật hình sửa trị!

Lão Jūtaka mặt cắt không còn hạt máu:

– Muôn tâu! Hạ thần đâu dám vọng ngôn với đức hoàng thượng! Đức Vessantara với lời phát nguyện cao thượng chẳng ai là không biết. Ngài còn giữ gìn gì cho mình, dẫu là con mắt hay trái tim? Ngài là đám ruộng vàng cho người nghèo đói, là tiên dược cho kẻ ốm đau, là dòng suối ngọt muôn phương cho người, vật và cỏ cây đang khô khát. Hạ thần già cả, ốm đau, cô độc – nên đã đến xin hai trẻ để đỡ đần chân tay lúc tối lửa tắt đèn.

– Im ngay! Vua quát to – sao nhà ngươi lắm lời đến vậy?

Vua Sañjaya biết lão bà-la-môn nói đúng, nhưng cũng tức giận đến run lẩy bẩy. Tức giận cái lão già khốn kiếp, dám xin cháu vua về làm tôi đòi.

Các quan đại thần nghe chuyện thì coi như được chứng kiến một sự kiệnhy hữu, bèn mở lời châm chọc, chế nhạo:

– Kỳ lạ đến thế là cùng! Của cải cho được, có lý. Voi báu của quốc độ cho đi, không thể tha thứ. Nhưng con cái là máu mủ, là một phần của sinh mạng mình mà cũng đành đoạn cho đi, thì không phải là giống người nữa…

– Không còn nhân tínhvị quan khác phụ họasài lang, hổ báo, kể cả rắn rít có tiếng là tàn độc, hung dữ nhất, chúng cũng biết thương con. Chỉ có đức Vessantara của chúng ta là nhân vật mà cổ kim chỉ có một, nên ghi vào sử vàng để lại cho muôn đời sau!

Như lửa cháy đổ thêm dầu, vua Sañjaya tím mặt rồng, giận cá chém thớt:

– Hay cho lão bà-la-môn dám khinh khi dòng dõi Sát-đế-lỵ! Quân bay đâu! Hãy đánh cho nó ba mươi trượng thị oai!

Quân hộ vệ dạ rân, hầm hổ tới trói gô lão bà-la-môn Jūtaka lại, căng ra, trượng to định giáng xuống…

– Hãy khoan!

Một trẻ chạy ra can, đó là Jāli.

Nguyên Jāli nghe các quan dám vô lễ chê Thái tử, dám ví cha nó còn tệ hơn sài lang, trẻ đã không chịu được. Bây giờ, thượng hoàng lại ra lệnh đánh lão bà-la-môn. Tuy mới mười hai tuổi đầu, nhưng con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, trẻ đã sớm biết đâu phải, đâu không phải, nên đã mạnh dạn bước ra ngăn lại.

Đức vua Sañjaya thấy cháu mình khuôn mặt không giận mà oai, đang đưa mắt nhìnmọi người ra vẻ chê trách thì cơn giận đã nguôi hơn nửa phần, bèn ôn tồn nói:

– Ta nể cha cháu nên đã không chém đầu lão kia, sao cháu lại can gián? Lão dám xin cháu về làm kẻ tôi đòi, thì đúng ra cháu phải hả dạ khi thấy người ta đánh lão chứ?

Trẻ Jāli lắc đầu:

– Không phải thế, tâu Thái Thượng Phụ! Các quan đại thần đã sai lầm mà cho chí Thái Thượng Phụ cũng sai lầm! Than ôi! Từ khi cha cháu đi khỏi thì triều đình này dường như không còn có ai nữa!

Mọi người nghe như có một làn gió lạnh tựa băng tuyết, quất vào mặt, im thin thít.

Trẻ Jāli cất giọng thanh tao, rõ mồn một:

– Chính vì những người bà-la-môn nghèo đói này mà cha cháu đã phát tâmtừ bibố thícủa cải. Chính vì những người bà-la-môn ác độc kia mà cha cháu cho voi thần đến nỗi mang tội với quốc độ. Cũng chính vì sự đau khổ chung của sanh loại mà cha cháu cam chịu đời cơ cực ở non sâu tuyết lãnh, nằm giường cây, uống nước lã, mặc áo da thú, ăn củ đắng và trái cây chua! Cha cháu dung thứ được cho mọi người. Không những dung thứ mà còn yêu thương. Vì yêu thương nên mải miết đi tìm phương thuốc cứu độ. Thế mà Thái Thượng Phụ lẫn cả triều đình chẳng dung thứ nổi một con người ăn xin ngu si đói khổ!

Đức vua và cả triều thần ngồi trân, ruột đau như cắt.

Chưa thôi, như vị quan tòa, Jāli quay mặt nghiêm khắc nhìn bá quan:

– Còn các người là gì mà dám to gan lớn mật chê trách cha ta? Một lũ xu phụ bám vào bả vinh hoa mà no thân ấm cật! Quốc độ này không có Thái Thượng Phụ ta tu nhơn tích đức từ nhiều đời kiếp, lấy vương pháp cai trị muôn dân, thì các ngươi có được bình yên mà ngồi hưởng phú quý? Quốc độ này nếu không có cha ta, với đức lớn làm cho Vương Tượng từ núi Tu Di đi qua hư không biếu tặng cho Voi Thần, thì đất nước Sivi là gì mà làm chủ chư hầu? Khi cha ta cho Voi Thần, các ngươi đã nhân danhquyền lợimuôn dân rồi xúi Thái Thượng Phụ lưu đày cha ta! Xin thưa với các ngươi rằng, các ngươi chưa biết xót thương một người, thì có lý nào biết lo đến quyền lợi con dân trong cả nước?

Các quan đại thần tức giận quá đến xanh mặt lại (Tương truyền rằng, trời Sakka vì muốn sau này hộ trì cho quốc độ, nên xui trẻ dạy cho đức vua và bá quan một bài học về thiện pháp, để chuẩn bị cho sự tốt đẹp của triều đại mới, khi Thái tửtrở vềlên ngôi vương như bốn điều sở ước). Vì vậy, trẻ Jāli không dừng lại ở đó mà còn tiếp tục với giọng lời chững chạc:

– Muôn tâu Thái Thượng Phụ! Hành động bố thícủa cải, bạc vàng, voi báu và cả hai con, người trong thế gian không ai làm được. Cha cháu yêu thương hai cháu như sự sống của chính mình thì lẽ đâu không tình thương xót máu mủ, mà bá quan dám ví tệ hơn sài lang, hổ báo?

Những đôi mắt phàm phu, hạ liệt làm sao thấy được việc làm của người cao thượng? Muôn triệu chiếc xe được kéo bởi tuấn mã, phi long, ngựa Sindhu thuần chủng cũng không đuổi kịp chiếc bóngđi trước của một nhân cách siêu việt. Người ta thường không dám cho đi một đồng trinh, một miếng cơm, một manh áo mà bao giờ cũng rêu raoquyền lợi kẻ khác! Cha cháu sống một đời dường như hoàn toànquên mìnhmọi người, mà bá quan dám chê bai – thì coi chừngchư thiên sẽ giận dữ, quỷ dạ xoa sẽ đập đầu họ vỡ thành ba mảnh, và luật nhân quảbáo ứng sẽ quẳng họ vào địa ngục đời đời!

Trẻ Jāli nói xong đã lâu mà đức vua và triều thần như còn đang ngồi trong lò lửa. Từ trạng thái tức giận lần lần đến hổ thẹn. Từ hổ thẹn, bây giờ họ đâm ra sợ hãi. Không có ai dám nhìn thẳng vào mặt Jāli. Chỉ có đức vua là cất giọng đầu tiên:

 – Thôi cháu! Jāli! Thái Thượng Phụ sai lầm mà bá quan cũng sai lầm trong hành động vừa qua. Cháu theo cha cháu mấy năm mà đã trở thành người khôn lớn, đã dạy cho ta và bá quan một bài học thấm thía vô cùng. Ôi! Thiệt là hổ phụ sinh hổ tử! Chính ta bị bụi dính đầy mắt thì còn nhìn thấy gì nữa đâu. Cháu đã mở mắt cho mọi người rồi đấy. Ai cũng thấy rõ cả rồi. Cháu bỏ qua nhé? Chúng ta sẽ sửa sai những điều quấy quá. Chúng ta sẽ thỉnh cha cháu về, vì chỉ có cha cháu mới xứng đáng là kẻ hiền đứcvô songquốc độ này. Thôi nhé, lại đây! Lại đây cả hai cháu. Muôn việc xí xóa hết cả rồi. Ngày mai mặt trời lại mọc. Mùa xuân sẽ về. Lại đây hai cháu. Lại ngồi như xưa trên vế của thượng phụ! Ôi! Thượng phụ nhớ thương hai cháu xiết bao!

Hai trẻ khóc òa. Kaṇhā định chạy tới nhưng Jāli nắm tay lôi lại. Đôi mắt đỏ hoe, Jāli cố gắng nuốt hơi rồi lắc đầu nói:

– Không thể được, thưa Thái Thượng Phụ, hồi xưa khác, nay khác. Hồi xưa hai cháu là hai hoàng tôn lá ngọc cành vàng, là dòng giống quý tộc vương giả, nhưng bây giờ hai cháu làm thân tôi tớ người – thì đâu dám đến gầnThái Thượng Phụ để Thái Thượng Phụ phải bị ô uế? Thái Thượng Phụ không sợ mình bị giảm giá trị? Không hổ mặt với triều đình bá quan hay sao?

Vua Sañjaya nước mắt tuôn dầm dề:

– Thôi cháu ơi! Nói chi lời gai đâm, muối xát làm lòng ta đau đớn, Thái Thượng Phụ sẽ tẩy xóa thân phậntôi đòi, để hai cháu trở lại giống dòng cao quý, sẽ là hai hạt ngọc ma-ni của quốc độ.

Jāli nói:

– Cha cháu đã đem hai cháu cho ngươi, tất nhiên là hai cháu đã thuộc về người. Dẫu lão bà-la-môn kia hèn hạ, ác độc, nhưng hai cháu nào dám không tuân? Vậy thìThái Thượng Phụ phải bỏ tiền ra chuộc cho đúng với lẽ phải ở đời!

– Phải rồi, cháu nói đúng! Vậy thì chuộc bao nhiêu? Cha cháu ấn định giá cả? Hay cháu? Hay lão bà-la-môn xấu ác kia?

Jāli nói:

– Lão bà-la-môn làm sao đủ tư cách để đánh giá hai cháu? Còn hai cháu thì làm sao lại có thể tự đánh giá mình! Cha cháu đã dạy sao thì cháu nói làm vậy. Thưa Thái Thượng Phụ! Trai thì một ngàn lượng vàng ròng không thừa, không thiếu. Gái, không những một ngàn lượng mà còn bò đực, bò sữa, trâu, ngựa, voi, tôi trai, tớ gái – mỗi thứ một trăm mới đủ tiền chuộc được!

Đức vua ngạc nhiên hỏi:

– Chỉ có bấy nhiêu thì đã lấy làm gì đắt đối với hai trái tim yêu dấu của ta. Nhưng mà này cháu Jāli! Bình thường trai quý hơn gái, mà sao ở đây, gái lại giá cả vượt mức trai đến như vậy? Cháu có lầm lẫn chăng? Gái quý hơn trai chăng?

Jāli rắn mắt nói:

– Muôn tâu! Trai quý hơn gái là đối với ai kia, nhưng đối với Thái Thượng Phụ, phải là gái quý hơn trai!

– Sao vậy? Vua cau mày.

– Muôn tâu! Thái Thượng Phụ chỉ có một trai thông minh, tài trí, hiền đức; thế mà cam tâm đày vào núi sâu, rừng thẳm. Còn ở đây, cung phi mỹ nữ mười sáu ngàn người đều được Thái Thượng Phụ sủng ái. Cho đến kẻ nữ nhân tệ nhất ở cung điện này còn sung sướng hơn vạn lần đứa con trai yêu quý của Thái Thượng Phụ! Vậy không phải là nữ quý hơn nam sao?

Đức vua Sañjaya cười giả lả nhưng lòng hổ thẹnvô cùng với đứa cháu rắn mắt. Vua sai quan trả giá cả như Jāli đã nói. Khi ấy hai trẻ mới nhảy vào lòng đức vua khóc thút thít. Đức vua lòng hoan hỷ không kể xiết, tức tốc cho mời hoàng hậu vào. Cả mấy người mừng mừng tủi tủi. Lát sau, cung phi mỹ nữ tràn vào chật cung điện, xin được thăm hai đức hoàng tôn yêu quý cách biệt lâu ngày. Ai cũng lạ lùng khi nghe đượccâu chuyện vừa rồi, vừa tò mò, vừa kính nể, vừa yêu thương hai trẻ khôn xiết.

Vua truyền cho triều đình và kinh đô ăn tiệc bảy ngày. Lại sai ban thêm cho lão bà-la-môn một tòa lâu đài bảy tầng với đầy đủ vật dụngcần thiết để đáp đền công lao mang hai cháu về, lại bố cáo giảm thuế má cho quốc dân, thả tội tù, xuất của kho bố thí khắp mọi nơi mọi chỗ ròng rã suốt nhiều ngày. Đâu đâu cũng nghe tiếng cười vui an lạc.

Riêng hai trẻ thì khỏi cần phải nói là chúng sống như thế nào. Thật là khồng kể xiết sự cưng chiều của mọi người. Lão bà-la-môn Jūtaka vì thiếu phước nên không hưởng được đời sống phú quý. Hôm kia, ăn một bữa quá no, trúng thực vỡ bụng, ói mật mà chết. Vua truyền cho họ hàngthân nhân đến lãnh gia tài, nhưng chẳng có ai. Amittadā biến đi đâu mất. Rốt cùng, tiền bạc, gia sản lại sung vào quốc khố.

Trong khi hàn huyên với hai cháu, đức vua Sañjaya gạn hỏi về đời sống của cha mẹ chúng như thế nào ở rừng sâu. Jāli và Kaṇhā cứ thực tình kể lại không giấu giếm điều gì. Đức vua vô cùngcảm động, truyền cho bá quan chuẩn bị ngựa xe để vua đích thân lên rừng đón Thái tử về kế vị ngôi vương. Tin được loan ra làm bừng bừng trái tim mọi người. Ai cũng nôn nả ngóng chờ hình bóng của người nhân đức.

Đúng ngày, một đoàn binh mã rầm rộ xuất cửa thành tây. Đức vua, hoàng hậu, cung nga thể nữ, bá quan mấy ngàn xa mã, theo sau là dân chúng tưng bừng nối đuôi hơn mấy do tuần

Quan binh tốp trước tốp sau; toán trắng, xanh, đỏ, vàng sặc sỡ, oai vệ như thiên binh cõi trời Ba Mươi Ba. Ngựa phi như giăng mắc, hướng chân núi Himavanta thẳng tiến. Đoàn người đi trọn bốn mươi lăm ngày, xa một trăm do tuần mới đến chân núi Gandhamādana. Đến cây đa to có trái chín ngọt như mật ong, Jāli chỉ cho đức vua xem chỗ trú chân đầu tiên. Đi một ngày đường nữa, họ đến chóp núi Nāḷika. Cả hai nơi đều được gã thợ săn Cetaputta và đạo sĩ Accutatapasa ra chào đón, nơi nào cũng được Jāli trình bày một cách rõ ràng, mạch lạc. Đức vua thấy núi rừng quạnh hiu rùng rợn, giữa thiên binh vạn mã mà cũng cảm thấylạnh lùng – mới thầm phục, thầm thương đức Vessantara vô cùng. Càng đi, đức vua càng cám cảnh đời sống cơ cực của gia đìnhThái tửngậm ngùi sa lệ. Một ngày đường nữa, họ đến chỗ trú ngụ lưu đày!

Gặp nhau, không ai nói với ai được tiếng nào. Đức vua và hoàng hậu nắm tay con mừng mừng tủi tủi. Thái tử và nàng Maddī cùng quỳ mọp dưới đất, không ai giấu được nước mắt…

Nàng Maddī chợt thấy Jāli và Kaṇhā, chạy đến ôm chầm hai con rồi ngất xỉu. Bá quan, cung nga thể nữ cảm động rưng rưng lệ.

Lát sau, đức vua và bá quan thỉnh đức Vessantara hồi trào lên ngôithiên tử, nhưng Thái tử từ chối:

– Con đã cho Voi Thần, đụng chạm đến quyền lợi của triều đình, phải bị đuổi vào rừng sâu 12 năm. Nay mới mấy năm mà trở về thì danh không chính, ngôn không thuận, xin vương phụ xét cho!

Đức vua nói:

– Voi Thần không chịu bước qua quốc độ biên giới! Các quan thần giữ biên phòng tin về kinh đô cho biết như vậy. Thế là hôm nay con không bị ràng buộc bởi các tội lỗi ngày trước!

Đức Vessantara cứng cỏi đáp:

– Con chưa bao giờ nghĩ rằng mình là kẻ có tội. Con chưa bao giờ làm việc gì do ác niệm dẫn dắt thì thưa vương phụ, tội lỗi kia do từ đâu sanh? Hay là tội lỗi và không tội lỗi do triều đình bá quan xét định? Thảng hoặc, căn cứ trên cái gọi là được quyền lợi và mất quyền lợi của những nhân danh và nhãn hiệu?

Lời và nghĩa của đức Vessantara sắc bén quá. Các quan đồng quỳ tâu:

– Cái đức lớn của Thái tử có thể linh thông được với Voi Thần, nhưng vì chúng tôiphàm phumắt thịt, đã không thấy, không biết, lại còn ngu si a dua kết tội oan. Nay cái hiểm họa mất nước không còn nữa, trái lại, các nước lâng bang đã nhờ đức của Thái tử mà tỏ lòng thuần phục. Chúng tôi nghe rằng: Dùng đức mà cảm hóa thì an ổnlâu dài, dùng sức mạnh chinh phục chỉ là ngòi thuốc nổ chậm. Nay cái đức của Thái tử đã cảm hóa mấy trăm tiểu quốc, thì cái thế hòa bình thiên hạ không còn là vấn đề nữa. Thái tử còn chờ đợi gì mà không hồi trào lên ngôiThiên tử, để trị vì trăm họ theo chánh pháp. Chúng tôi từ khi được đức hoàng tôn làm cho sáng mắt, đã trông chờThái tử như hạn hán trông mưa! Lượng rồng cao cả lẽ nào không xá tội được cho chúng tôi, khi chúng tôi biết rằng mình là kẻ có tội? Chúng tôi còn có nghe rằng: Bậc trí không ăn năn bằng lời nói, mà phải ăn năn bằng chính hành động phục thiện của mình. Vậy thì, tất lòng gan ruột chúng tôi đã bộc bạch, thiên hạ đang trông chờtriều đạihoàng kim của một đấng Minh quân. Xin khải tấu Thái tử rõ!

Lời của bá quan thật cảm độngđáng kính phục. Lòng Thái tử hồ hởi, đẹp dạ vô cùng. Sau ba lần thỉnh mời, Thái tử không còn lý do để từ chối nữa, quỳ lạy đức vua và xin phụng mạng.

Thái tử cởi áo da thú, thay chiếc vương bào, lòng bùi ngùi. Ngài đi quanh tịnh thất ba vòng, rồi đứng lặng hồi lâu nhìn chiếc am tranhthân yêuquen thuộc. Thái tử nói:

– Này hỡi chiếc mái cỏ nghèo nàn! Mấy năm trời nay ngươi đã đỡ nắng, che mưa cho ta; đã cùng ta trải qua những ngày tháng an lạc, vô vi, thanh tĩnh. Ta từ giã ngươi, trở về kinh đô hoa lệ, bỏ ngươi một mình giữa chốn núi rừng quạnh hiu… Nhưng mà rồi ngươi sẽ được hân hạnh đón chờ bước chân của những vị ẩn sĩ khác.

Rồi Thái tử lại nói giữa thinh không:

Tri âncảm tạnúi rừng, các vị chư thiên, thọ thần hảo tâm, đã hộ trì, nâng đỡ ta suốt mấy năm lạc trú. Ta sẽ mang theo mình mối tri cảm này. Và nguyện rằng, công đức, phước huệ mà ta có được do sự phục vụtu trì, sẽ là của chung, sẽ là pháp nâng đỡchúng tacho đến ngày tìm ra đạo cả!

Ngay khi ấy, Thái tử nhờ thiên nhĩ thuần tịnh, nghe đượcchư thiênnúi rừng Grivaṇka tán thán bằng bài kệ:

“- Của chung này là thiện sự!

Của chung này là phước huệ!

Này hỡi đức Vessantara, con của đức vua Sañjaya và hoàng hậu Phussatī!

Ngài là chúng hữu tình duy nhấtchúng tôi sẽ được nhờ nương!

Ngài là chúng hữu tình duy nhấtchúng tôi sẽ được ở trong hào quang xán lạn!

Quốc độ của Ngài sẽ là mái nhà an ổn cho chúng tôi nhiều đời nhiều kiếp!

Sung sướng thay là được hộ trì!

Hạnh phúc thay là được góp phần công đức!”

Khi Thái tử trở ra thì đức vua và quan quân đã chuẩn bị sẵn sàng cuộc lễ Đăng Cực (lên ngôi vua) ngay tại chỗ. Thái tử được người ta tắm bằng nước thơm, đội vương miện và mặc long bào. Gần mười muôn người tung hô làm chấn độngnúi rừng Grivaṇka. Lễ tôn vương xong, Thái tử leo lên kiệu rồng, tiền hô hậu ủng xuống núi. Hai ngày sau thì đến vùng đất bằng, đổi long xa, nhắm hướng kinh đô tấn phát.

Một quang cảnh diễn ra cực kỳ tưng bừng và náo nhiệt khi tân vương, Thái Thượng Hoàng và đoàn ngự giá đến biên địa Jetuttara. Trầm hương đâu mà nghi ngút, ngào ngạt cả không gian! Bông hoa đâu mà chưng bày đầy cả đường sá. Người người đâu mà hàng hàng lớp lớp dài mấy do-tuần. Rồi nào là ngựa xe, cờ xí, đèn sao, cổng hoa rộn rã từ làng này sang làng khác. Tân vương đứng trước long xa cho mọi ngườichiêm ngưỡng. Nhìn dân chúng mừng vui ngài nở nụ cười sung sướng.

Về thành, ngoài mấy muôn ngự vệ túc trực sẵn, Tân vương còn thấy những đoàn sứ giả từ các tiểu quốc đồng đến lạy mừng. Ngoài ra, một đoàn bạch tượng to lớn, bệ vệ, dẫn đầu là Voi Thần đến phủ phục bên chân ngài. Tân vương đang ngạc nhiên thì tám người Bà-la-môn độ nọ xuất hiện.

– Khải tấu Tân quốc vương! Họ quỳ tâu – Xứ Kāliṇgā chúng tôi từ khi được Voi Thần, lòng nóng nảy như ngồi trên lò lửa. Chúng tôi thiếu phước nên Voi Thần không phụng mạng mỗi lần động binh. Từ khi Thái tử bị lưu đày vào rừng sâu, tệ quốc, trăm người như một đều nghiêm khắc lên án bản triều. Nay Voi Thần xin hoàn về cố chủ. Và xin tạ lỗi bằng một trăm con bạch tượng oai hùng. Xin Tân vương hoan hỷ xá tội và dụng nạp lễ vật!

Đức Vessantara gật đầuhài lòng. Ngài đến bên Voi Thần như đến với người bạn cố tri, đưa tay vuốt ve, vỗ vềthân ái. Voi Thần chợt đưa vòi quấn Ngài bỏ lên lưng, rồi đột nhiên rống lên một tiếng, nhấc mình vọt cao, bay quanh thành ba vòng giữa tiếng hoan hô như sấm động của muôn triệu người ngưỡng mộ.

Trời Sakka lúc ấy ngự giữa đám mâyngũ sắc – Ngài cho một trận mưa bảy báu xuống đầy tràn cung điện – làm cho bá quan, bá tánh lạ lùng chắp tay giữa hư không xá lạy không ngớt. Thế là Đế Thích thiên vương đã thành tựulời hứa khả của ngài. Lại ra lệnh cho chư thiên trong quốc độ từ nay phải tích cựchộ trì đức vua, để ngài thực hànhchánh pháp cho có hiệu quả.

Đức Vessantara sống đến một trăm hai mươi tuổi thì thăng hà. Ngài sinh lên cung trời Tusita (Đâu-suất), có tên là Setaketu.

Những người thực hành theo giáo huấn của ngài đều được sinh lên Đao Lợi thiên cung.

Đức Vessantara là tiền thânđức Phật Sakyā Gotama vậy.

  Phụ chú:

– Lão bà-la-môn Jūtaka là tiền thânđại đức Devadatta

– Amittatāpanā là tiền thân nàng Ciñcamāṇavikā

– Thợ săn Cetaputta   là tiền thân của đại đức Channa

Đạo sĩ Accutatāpasa là tiền thântôn giả Sāriputta

Trời Đế Thíchtiền thântôn giả Anuruddha 

– Trời tạo tịnh thấttiền thântôn giả Moggallāna

– Maddī là tiền thâncông nương Yayodharā

– Vua Sañjaya là tiền thân đức vua Suddhodana

– Hoàng hậu Phussatī là tiền thân của lệnh bà Mahāmāyā

– Trẻ Jāli là tiền thân của Rāhula

– Bé Kaṇhā là tiền thân của nàng Uppalavaṇṇā

 

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH