Về Khái Niệm Phương Tiện Thiện Xảo

VỀ KHÁI NIỆM PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO
Thích Nguyên Hiệp

Phương tiện thiện xảo
(S. upāya kauśalya; P. upāya kosalla) là một khái niệm quan trọng trong Phật
giáo
Đại thừa. Khái niệm này được đề cập đến trong một số bản kinhnhư Pháp
Hoa, Bát Nhã, Duy Ma CậtPhương Tiện. Và khái niệm này được hiểu theo nhiều cách
khác nhau, tùy theo từng ngữ cảnh.

Thường,
phương tiện thiện xảo được hiểu như là một phương cách mà chư Phật và Bồ Tátsử
dụng
trong việc thuyết giảnggiáo pháp cho những đối tượng khác nhau, tùy theocăn cơ của họ, đưa họ đến giác ngộ theo một cách hiệu quả nhất.


như vậy, người sử dụngphương tiện thiện xảo là người có thể biết được căn cơ
tâm thức của những đối tượng cần giáo hóa, qua đó truyền trao cho họ những
giáo lýphương pháptu tậpthích hợp với khả năng của họ. Nói cách khác,
người thực hànhphương tiện thiện xảo là người có đủ trí tuệtừ bi: trí tuệ
thấy rõ căn cơ của chúng sanh và truyền trao cho họ những giáo phápthích hợp;
từ biđộng lựcthúc đẩy việc cứu độchúng sanh.

Trong
Phật giáoĐại thừa, trí tuệ, từ biphương tiện thiện xảo là ba phẩm tính
không
thể thiếu của một vị Bồ Tát. Có thể nói như thế này, trí tuệ là nội dung,
lòng từ bi là sự thể hiện nội dung đó, và phương tiện thiện xảo là cách chuyển
đổi
nội dung thành một hành động cụ thể. Trong Bodhisaṃbhāraka (Bồ-đề
lương
luận)
ngài Long Thọ xem lòng từ bi là kết quả của việc kết hợp của trí
tuệ
phương tiện thiện xảo: “Trí tuệ bát nhã là mẹ của chư Bồ Tát, phương
tiện thiện xảo
là cha của họ, và lòng từ bi là con gái của họ.”

Những
thời kỳgiáo hóa khác nhau của Đức Phật, điều được trình bày qua một số kinh
điển Đại thừa
, và về sau qua “hệ thống phán giáo” của các tông pháiPhật giáo
Trung Hoa, cũng được xem là áp dụngphương tiện thiện xảo. Khái niệm này cũng
chỉ cho những việc làm “bất khả tư nghì” của chư vị Bồ Tátvì lợi ích của chúng
sanh
, hoặc vì lợi ích của số đông. Trong Thập Địa kinh, khi đạt tới quả vị thứ
bảy là Viễn hành địa, một vị Bồ Tát sẽ có đủ những phương tiện thiện xảo để
giáo hóachúng sanh. Bên cạnh, trong đời sống thực tế, khái niệm này còn được
hiểu theo những chiều hướng khác nhau, và cũng được “thực hành” với những “mục
đích” khác nhau.

Thuật
ngữ
“phương tiện thiện xảo” ít xuất hiện trong các kinh tạng Nikāya. Trong
Theragāthā của Tiểu Bộ Kinh, thuật ngữ này được đề cập trong một bài kệ: “Với
phương tiện thiện xảo/
Ta, bà con mặt trời/ Được hướng về chánh lý/ Làm
ta thoát sanh hữu.”
(Theragāthā, 158).Trong Suttanipāta, cũng thuộc
Tiểu Bộ Kinh, thuật ngữ này lại được nhắc đến:“Như người được leo lên/ Chiếc
thuyền mạnh vững chắc/ Được trang bị đầy đủ/ Mái chèo và tay lái/ Người như vậy
ở đây/ Giúp nhiều người ngược dòng/ Rõ biết những phương tiện/ Thiện xảo
sáng suốt.”
(Suttanipāta, kệ 321).Khái niệm này cũng xuất hiện trong
kinh Saṅgīti (Phúng tụng) của Trường Bộ kinh III.

Nếu
ta hiểu phương tiện thiện xảo là những phương cáchgiáo hóa “thiện xảo” khác
nhau của Đức Phật thì điều này đã xuất hiện trong kinh tạng Nikāya. Trong kinh
tạng
Nikāya, ta thấy Đức Phật đã dùng nhiều phương thức khác nhau để giáo hóachúng sanh; những phương thức đó có khi là những lời dạy về các chuẩn tắc đạo
đức
, có khi chỉ ra những phương pháptu tậpcụ thể, có khi bằng những câu
chuyện
ẩn dụ, có khi là sự thể hiện thần thông và cũng có khi bằng sự im lặng.

Phần
đầu của bài viết này tìm hiểu một vài khía cánh liên quan đến “phương tiện
thiện xảo” như được tìm thấy trong kinh tạng Nikaya.

Phương
cách
giáo hóa của Đức Phật

Sau
khi chứng ngộ, vào lúc đầuĐức Phật không có ý định truyền giảng những gì mà
Ngài đã giác ngộ, bởi vì nhận thấy rằng những sự thật mà Ngài chứng đắc khó cho
người khác lãnh hội. Nhưng sau lời thỉnh cầu của Phạm thiên Sahampati và quán
sát
căn tánh của chúng sanh, thấy mặc dù có người chưa đủ căn trí để lĩnh hội
giáo pháp, nhưng có người có thể thọ nhận được, Đức Phật đã bắt đầu vận chuyển
pháp luân
, truyền giảng lại những gì mà Ngài thấy biết từ sở chứng của mình.

Việc
Đức Phật chưa vội chuyển pháp luân sau khi chứng ngộ và đợi đến khi có lời
thỉnh cầu của Phạm thiên Sahampati, được xem là một “phương tiện thiện xảo”
trong bước đầu hoằng hóa độ sinh của Ngài. Giữa một nền văn hóatriết họcảnh hưởng sâu sắc Bà-la-môn giáo, việc thỉnh cầu của một vị thần của chính tôn
giáo
đó muốn nói lên rằng xã hội đó đang cần đến một nguồn giáo pháp mới giúp
họ đạt được những lợi íchtrong đời sống tâm linh. Và giáo pháp được thuyết
giảng
là bởi vì có người đang khát khao cần đến.

Khi
xã hội cần đến nguồn giáo pháp mới ấy rồi, nhưng để giáo pháp ấy đến được với
mọi người từ những giai tầng khác nhau trong xã hội lại cần đến một sự hóa độ “thiện
xảo”. Kinh Thánh Cầu (Trung Bộ I) đã ví dụ chúng sanh trong cõi đời như những
hoa sen ở trong hồ: có hoa sen đã vươn lên khỏi mặt nước, nhưng cũng có những
hoa sen chưa vượt lên khỏi mặt nước. Chúng sanh ở trong cõi đời cũng vậy, có
người “ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có
hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy khó dạy, và một số ít thấy sự nguy
hiểm phải tái sanhthế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm.”

chúng sanh căn trí khác nhau, nên giáo pháp dù rằng chỉ có “một vị duy nhất
vị giải thoát”, cần được truyền giảng bằng những phương cách khác nhau.

Như
chúng ta đã biết, bài pháp đầu tiênĐức Phậtthuyết giảng cho năm anh em tôn
giả Kiều Trần Như
Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattana), và sau đó là
Ngã
Tướng (Anattalakkhana), và năm vị này chứng đắcquả vị A-la-hán sau khi
nghe những thời pháp này. Tiếp theoĐức Phậtgiáo hóa Yasa và 54 người bạn của
ông. Sau đó Ngài đến Uruvela và hóa độ 30 thanh niên; rồi hóa độ ba anh em Ca
Diếp
(Kassapa) thờ lửa cùng với 1.000 đệ tử của họ. Những sự kiện này xảy ra
vào năm đầu tiên sau khi Đức Phậtgiác ngộ. Vào năm thứ hai, việc hóa độ
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên được xem là điểm mốc quan trọng trong việc hoằng
hóa của Ngài.

Ta
thấy rằng, hầu hết những người được Đức Phậthóa độ đầu tiên là những người
trước đó đã thực hànhđời sốngtôn giáo, có đời sốngtâm linh sâu và có căn trí
cao; và họ đã dễ dàng đắc được thánh quả chỉ qua một thời pháp, do “ít nhiễm
bụi đời”
và nhờ vào sự“lợi căn”. Việc hóa độ những người này và rồi
họ trở thành những người đầu tiên mang sứ vụ truyền giảng giáo pháp, được xem
phương tiện thiện xảo trong việc khởi đầu truyền bá giáo pháp của Đức Phật.
Việc theo Đức Phật của những người đệ tử đầu tiên, với sự ảnh hưởng của họ
trước đó, hẳn giúp cho việc truyền bá giáo pháp được thuận tiện hơn.

Nhưng
sự nghiệptruyền bá giáo pháp của Đức Phật không chỉ dừng lại nơi những người
có căn trí cao. Trong suốt 45 năm hoằng hóa, Đức Phật đã gặp nhiều hạng người,
xuất thân từ những giai tầng xã hội khác nhau. Đọc kinh sách, chúng ta có thể
thấy được sự linh hoạt của Đức Phật trong việc truyền bá giáo phápcảm hóaquần chúng. Có những đối tượng Đức Phật giảng dạy cho họ về giáo lýDuyên khởi,
Vô ngã, Tứ đế, nhưng có những đối tượng Đức Phật giảng dạy cho họ những chuẩn
tắc đạo đức, những cách thức hành xử trong đời sống hằng ngày, như những mối
quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa thầy và trò, giữa ông chủ và người làm
công, giữa bạn bè với nhau… (những điều này được trình bày trong kinh Thiện
Sanh
, Trường Bộ Kinh).

Trong
Kinh tạng, đôi khi ta thấy, dù Đức Phật không thừa nhận các Vedas và hệ thốngtriết học của Bà-la-môn giáo, nhưng cũng có trường hợp Ngài lại dạy cho các
Bà-la-môn cách thức sinh về thế giớiPhạm Thiên. Chẳng hạn như trường hợpĐức
Phật
dạy cho hai thanh niên Bà-la-môn cách thức hợp nhất với Phạm thiên, qua
việc thực hànhtứ vô lượng tâm: từ, bi, hỷ và xả.

Chúng
ta
có thể tìm thấy nhiều trường hợphóa độ “thiện xảo” khác của Đức Phật
trong Kinh tạng. Ở đây xin dẫn ra thêm vài trường hợp có thể xem là nổi bật.

Thứ
nhất là việc Đức Phậtcảm hóa Angulimala. Angulimala vốn là một tên cướp khét
tiếng, đã từng giết vô số người vô tội, lấy ngón tay xâu thành chuỗi và đeo lên
cổ. Đức Phật vì muốn cảm hóa nên đã vận sức thần thông đến trước ông. Khi thấy
Đức Phật đi ở phía trước, Angulimala đã cố sức đuổi theo với hy vọng sẽ có được
ngón tay cuối cùng xâu vào xâu chuỗi của mình. Nhưng ông đã không thể nào đuổi
theo kịpĐức Phật. Vô vọng, ông đã thét lớn bảo Đức Phật hãy dừng lại.

Đức
Phật
trả lời rằng Ngài đã dừng lại rồi, cho dù Ngài đang đi; và hỏi Angulimala
đã dừng lại hay chưa. Sau đó Đức Phậtgiảng giải rằng, Ngài đã dừng là dừng các
ác nghiệp, những điều gây tổn hại cho chúng sanh; và khuyên Angulimala hãy dừng
tay lại, chớ nên tiếp tục giết hại đồng loại. Lòng từ bi và phương cáchgiáo
hóa
thiện xảo của Đức Phật đã cảm hóa được Angulimala. Sau đó ông xuất gia
chứng đắcthánh quả.

Câu
chuyện
khác là việc Đức Phậthóa độ cô Kisa Gotami. Kisa Gotami đau buồn cùng
cực khi người con nhỏ của cô qua đời. Cô ôm xác con đi khắp nơi với hy vọng sẽ
tìm được người có thể cứu sống được đứa con tội nghiệp của mình. Và rồi cô tìm
đến Đức Phật.

Đức
Phật
bảo với cô rằng, Ngài sẽ cứu sống con của cô nếu cô xin được cho Ngài một
nắm
hạt mù-tạc tại một nhà mà nơi đó trong quá khứ chưa từng có người chết. Cô
Gotami vâng lời và đi tìm xin hạt mù-tạt theo lời yêu cầu của Đức Phật. Nhưng
cô không thể tìm ra được hạt mù-tạt tại một gia đình mà ở đó chưa từng có người
thân qua đời trong quá khứ; và điều này đã giúp cô hiểu ra rằng cái chết là một
vấn đề không ai tránh khỏi, khác nhau là nó đến sớm hay muộn. Hiểu được sự thật
đó, cô ôm xác con vào rừng chôn cất và sau đó quay lại với Đức Phật, xin phép
xuất gia và về sau đã chứng được thánh quả.

Những
câu chuyện được dẫn ở trên là một vài trong vô số những câu chuyệnliên quan
đến
những phương cáchgiáo hóathiện xảo của Đức Phật. Những phương cáchgiáo
hóa
này dù khác nhau, nhưng chúng đều được đặt cơ sở trên trí tuệtừ bi.

Sự
im lặng của Đức Phật

Đức
Phật
đã từng im lặng trước những câu hỏi siêu hình, như: thế giớithường
hằng
hay vô thường, hữu biên hay vô biên; sinh mạng và thân là một hay là khác;
Như Laitồn tạisau khi chết hay không tồn tại sau khi chết… Trong một số
trường hợpĐức Phật cũng từ chối câu hỏi có ngã hay không có ngã; và đôi khi
cũng từ chối trả lời về sự vận hành của nghiệp. Sự im lặng của Đức Phật trước
những câu hỏi siêu hình này đã đưa đến những ý kiến “trái chiều” của hậu thế;
và người ta cũng tốn rất nhiều bút mực để bàn luận về vấn đề này và ghán ghép
Ngài thuộc vào trường phái này hay trường phái kia. Chẳng hạn như gán cho Ngài
thuộc trường phái bất khả tri, hay hoài nghi.


một góc độ, “sự im lặng của Đức Phật” trước những câu hỏi siêu hình có thể được
xem là một “phương tiện thiện xảo” trong giáo hóa. Trong Tương Ưng Bộ kinh, khi
du sĩ Vacchagotta hỏi rằng con người có tự ngã hay không có tự ngã, Đức Phật đã
im lặng trước câu hỏi này. Và khi du sĩ Vacchagotta đi rồi, tôn giả Ananan hỏi
rằng tại sao Đức Phật không trả lời những câu hỏi của vị du sĩ ấy, thì Đức Phật
đáp rằng, nếu Ngài trả lời có tự ngã thì điều đó xác định rằng Ngài ủng hộ
thuyết thường hằng; còn nếu Ngài bảo không có tự ngã thì điều đó có nghĩa rằng
Ngài ủng hộthuyết đoạn diệt.


người cho rằng rằng sự im lặng của Đức Phật trước câu hỏi có ngã hay không có
ngã là một cách gián tiếp xác định không có ngã, bởi vì trong những bài kinh
trước đó, như kinh Vô ngã tướng chẳng hạn, Đức Phật đã khẳng định rằng không có
ngã. Nhưng đối với du sĩ Vachagotta, Đức Phật đã giữ thái độim lặng, vì nghĩrằng câu trả lời của Ngài không đem lại lợi ích cho vị du sĩ này.

Trong
một số trường hợp khác, Đức Phật dạy rằng việc quán chiếu khổ đau, nguyên nhân
của khổ và tu tập đoạn trừ khổ đau thì quan trọng và thiết thực hơn việc tìm
hiểu
những câu hỏi siêu hình. Tuy nhiên, sự im lặng của Đức Phật đã trở thành
đề tài tranh luận của hậu thế; và sự im lặng của Ngài cũng đã mở ra một cánh
cửa khác trong việc phát triển Phật giáo về sau.

Giáo
pháp
là một phương tiện

Trong
kinh Ví Dụ Con Rắn (Alagaddùpama sutta, Trung Bộ I), Đức Phật dạy rằng người
học đạo nên áp dụnggiáo pháp vào trong đời sống theo một cách thức khôn khéo
đúng đắn. Giáo pháp chỉ là một phương tiện, và nếu người sử dụngphương tiện
đó với mục đích giải thoát khổ đau, thì người đó được xem là có trí tuệ. Còn
người học giáo pháp chỉ vì
“muốn chỉ trích người khác” hay chỉ vì
“muốn khoái khẩu biện luận”,
thì người đó đang nắm giữ giáo phápsai lạc,
được xem là không thiện xảotrí tuệ trong việc học Phật.

Cũng
trong kinh Ví Dụ Con Rắn, Đức Phật đưa ra một ví dụ rằng, có người đi đến một
vùng nước rộng, có nhiều nguy hiểm, và người này đã dùng nhành cây và các vật
dụng
khác để kết thành một chiếc bè để vượt qua vùng nước sâu rộng và nguy hiểm
đó. Và sau khi đưa ra ví dụ này, Đức Phật hỏi các tỳ-kheo rằng, nếu người dùng
chiếc bè để vượt qua vùng nước ấy, sau đi đã qua bờ bên kia rồi, vẫn chấp chặt
vào chiếc bè, thì người ấy có phải là người có trí tuệ không. Các tỳ-kheo trả lời
rằng “không”. Người được xem là có trí tuệ, là người sau khi đã qua đến bờ bên
kia
rồi, biết bỏ đi chiếc bè ấy.

Chiếc
bè trong bài kinh này được ví với giáo pháp, nó như một phương tiện để đưa
người qua biển khổ; và một người khi đã “vượt qua bờ bên kia” rồi thì hãy bỏ
chiếc bè lại. Và bài kinh kết lại rằng “Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa
phi pháp.”

Những
ý tưởng ở trên chúng ta cũng có thể tìm thấy trong kinh Kim Cương. Và với câu
nói “chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp” trong kinh Ví Dụ
Con Rắn
, cho thấy rằng giáo pháp chỉ là một phương tiện, không phải là chân lý.
Tuy nhiên người ta phải cần đến phương tiện đó để đạt đếnchân lý; nhưng khi đã
đạt đượcchân lý thì cần phải bỏ phương tiện ấy đi. Điều này cũng tương tự như
những gì được nói trong kinh Viên Giác: giáo pháp như ngón tay, và chân lý như
mặt trăng, phải nương theo ngón tay để thấy mặt trăng nhưng đừng lầm chấp ngón
tay là mặt trăng.

Về
phương diệnPhật học, các câu chuyệnTiền thânnhấn mạnh một điều rằng, để
thành tựuPhật quả, người ta cần phảitrải qua nhiều kiếp thực hànhBồ Tát hạnh
với các Ba-la-mật. Công việc của một Bồ Tát thì không giới hạn ở trong tự viện,
hay ở nơi một hình thức nào. Bồ Tát trong các câu chuyệnTiền thân, xuất hiện
với những hình thức khác nhau. Nhưng cho dù hiện thân với hình thức nào, một vị
Bồ Tát luôn cho thấy là có trí tuệ, luôn phát khởilòng từ bi và hành động với
nhiều “phương tiện thiện xảo” khác nhau vì lợi ích của kẻ khác.

Ở trên chúng tatìm
hiểu
một vài vần đề ở trong kinh tạng Nikāya mà chúng ít nhiều liên hệ đến khái
niệm “phương tiện thiện xảo”. Như đã nói từ lúc đầu, khái niệm “phương tiện
thiện xảo” chính yếu được sử dụng trong Phật giáoĐại thừa. Vì vậy để hiểu rõ
hơn về khái niệm này, chúng ta cần thảo luận thêm với việc dẫn chứng những kinh
và luận Đại thừaliên quan. Chúng tôi sẽ trở lại đề tài này trong một bài
viết khác.

(Tập san Hoằng pháp)