Ý nghĩa bờ bên kia

Ý NGHĨABỜ BÊN KIA
HT. Thích Trí Quảng

quay dau la boquay dau la boBờ bên kia dịch từ chữ Hán là đáo bỉ ngạn, tức đến bờ bên kia. Có người dùng từ hồi đầu thị ngạn nghĩa là quay đầu là bờ, từ này cũng khó hiểu, ít có người hiểu đúng. Bờ bên kia ở đâu và hồi đầu là gì?

Trước nhất chúng ta phân ra hai bên, một bên là thử ngạn, tức bên này và bỉ ngạn là bên kia. Chúng ta đứng bên bờ này là bên bờ của sanh tử, cho nên đối với sanh tử, chúng tabờ bên kiaNiết bàn. Người tu Thiền còn gợi thêm một ý nữa là “Sanh tử Niết bàn đẳng không hoa”, tức sanh tử thuộc ảo, nhưng Niết bàn cũng ảo; đó là đỉnh cao của Bát Nhã. Đức Phật dạy rằng vì chúng ta đứng ở sanh tử, nên hướng về Niết bàn; nhưng đạt đượcNiết bàn thì Niết bàn đó cũng là ảo. Ý này mở ra cho chúng tanhận biết được có một thế giới vượt trên Niết bàn.

Trước nhất, chúng ta đang đứng ở bờ sanh tử, hay sống trong sanh tử, tức có sanh thì phải có chấm dứt cuộc sống. Tuy nhiên, ý nghĩachúng ta muốn nói đến là bờ bên kia, tức sau khi chết, chúng ta về đâu. Thông thường chúng ta nghĩ rằng sau khi chết, chúng ta về thế giới Phật, về Niết bàn, về thiên đường, hoặc tái sanh lại cõi người. Như vậy, cứu cánhNiết bàn là điểm tối hậu, còn phía bên kia có nhiều thứ, không nhất thiết có một. Khi chúng ta đến thế giới Ta bà này, mỗi người đều mang theo mình nghiệp riêng từ quá khứ. Có thể nói chúng tahiện hữuthế giới này là thể hiện nghiệp quá khứhành vi tạo tác của chúng ta trong kiếp này là hạt nhân để tạo thành cuộc sống của kiếp sau. Vì vậy, chúng ta sống như thế nào trong hiện tại thì sau khi chết, sẽ có đời sauthể hiện cuộc sống hiện tại của chúng ta

Thật vậy, sinh hoạt hàng ngày của chúng ta được đưa vào và lưu giữ lại trong tiềm thức, Duy thức học gọi là A lại da thức. Và tất cả những gì xảy ra  trong cuộc sống hiện tại đều được gom vào đầy đủ trong kho tiềm thức và chúng thường hiện ra trong giấc mơ khi chúng ta chìm vào giấc ngủ. Tiềm thức hay tâm thức của chúng ta đã nói lên được cuộc sống của chúng tasau khi chết. Những người tham lam, hung dữ, độc ác, hơn thua tranh giành trong cuộc sống hàng ngày, những việc này phát xuất từ tâmtham vọng, nên tâm thức đó đã chất chứahạt giống ác. Chính vì vậy mà khi còn sống, tâm trạng họ đã bất an và trong giấc ngủ, họ cũng mộng mị bất an, cho đến giấc ngủ dài là sau khi chết, tâm họ chắc chắn cũng rơi vào thế giới bên kia bất anđịa ngục. Những người sống trong trạng thái tâm như vậy, thì đối với họ “Dương gian là cảnh, âm phủ là quê, sống ở thác về”. Thác về là về địa ngục, nghĩa là họ phải trải qua từ tầng địa ngục thứ nhất cho đến tầng địa ngục thứ mười. Qua mười chặng đường của thế giới âm, đến chặng cuối cùng để giải quyết những việc mà con người đã làm trên trần gian và trước khi tái sanh lại cuộc đời, họ đến nhà bà lão do Ngọc hoàng gởi xuống. Bà lão này cho ăn bát cháo lú thì tái sanh trên cuộc đời, họ quên tất cả quá khứtrở lạicon ngườibình thườngtrần tục mà sống, để rồi kết cuộcchấm dứt cuộc sống cũng lại đi một vòng giống y như vậy, lại đi qua mười cửa ngục, rồi tái sanh… Đó là cuộc sống hẹp, lẩn quẩn trong địa ngụcluân hồi, nhưng nếu mở rộnglục đạo luân hồi, tức có sáu con đường luôn mở rộngmở rộngtâm thức, không phải chỉ đi vàođịa ngục; tùy theosuy nghĩ và hành động mà mỗi người có kết quả khác nhau sau khi chết

Đương nhiên tạo ác thì vào địa ngục, còn người tạo phước nhưng nhiều sân hận, họ có thể sanh lại thế giớiA tu la. Hoặc người sống lương thiện không thể vào mười địa ngục, họ có hạt nhân làm người thì tái sanh làm người và nếu có phước cao, đã sống trọn mười điều lành, họ sẽ sanh lên cõi Trời dục, tức Tứ thiên, Đao lợi thiên, Dạ ma thiên, hay Hóa lạc thiên. Như vậy, đối với những người vừa nói, bờ bên kia được giới hạn trong phạm viluân hồitái sanh từ địa ngụccho đếncõi người, cõi trời. Những người không tu chưa hiểu đạo, chưa thực tậpThiền quán, chưa hạ thủcông phu thì chỉ đi vàolục đạo luân hồi này.

Còn bờ bên kiaĐức Phật dạy xa hơn cho người có hạ thủcông phu thì như thế nào. Trước tiên, Phật dạy hàng Thanh vănthực tập 37 trợ đạo phẩm, bờ bên kia của họ hoàn toàn khác, vì họ tu hành sống cuộc đời khác với phàm phu,  họ không huân tập tâm xấu ác, không làm việc tội lỗi, kể cả tâm tốt, việc thiện cũng không huân tập. Họ chỉ muốn làm cho tâm thanh tịnh mà thôi. Khởi đầu tu, Phật dạy Thanh văn tu Tứ niệm xứ quán: quán thân bất tịnh, quán tâm vô thường, quán thọ thì khổ, quán pháp vô ngã; cuối cùngđến bờ bên kia là Không. Và thế giới Không này theo tinh thầnBát Nhã mà Đức Quan Âm đã “Hành thâm Bát Nhãba la mật đa thời chiếu kiếnngũ uẩngiai không độ nhứt thiết khổ ách…”. Mở đầu Tâm kinh, Đức Phậtgiới thiệuBồ tátQuan Âm nhờ thực tậpBát Nhã đến mức đào sâungũ uẩn, thấy tất cả đều là không, thì không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, cũng không có cứu cánhNiết bàn; từ đó, tâm hoàn toàn trống không, đạt đạo giải thoát

Vì vậy, bước đầutu hành của chúng tacứu cánhNiết bàn, giải thoát. Các Phật tửtu họcPhật phápcố gắngthực tập cho được giai đoạn một, phải nhận thấy rõ tất cả mọi ngườicuối cùng đều phải rời bỏ thân tứ đại, huống chi là vật sở hữu làm sao giữ được, mang theo được sau khi chết. Ý thức sâu sắc như vậy sẽ bỏ được tâm chấp trước, chúng ta liền có cuộc sống an lạc

Đầu tiên kinhBát Nhã mở ra cho chúng ta hiểu được ý nghĩa của đến bờ bên kia; nhưng chỗ này không phải là điểm dừng của chúng ta. Thật vậy, Bát Nhã là đỉnh cao của Tứ Thánh Đế mà Phật đã dạy. Người tu thành tựu giới, định, tuệ, mới thấy được thế giới không, không này là không chấp trước, không tham đắm. Còn chấp trước, còn tham đắm thì còn khổ. Đỉnh cao của người tu là tâm hoàn toànthanh thản, vì không chấp trước, không tham đắm, nên tất cả mọi việc đối với chúng ta trở nên nhẹ nhàng. Nhưng chúng ta không dừng ở chỗ này, vì có thế giới không này để thoát ly bờ sanh tử mà thôi và sau cái không này còn có cái vi diệu hơn nữa. Vì vậy, khi mở được mắt trí huệ, chúng ta sẽ thấy rõ những gì bờ bên kia có, không phải KHÔNG là trống không.

Trên tinh thần này, Ngài Huệ Năng dạy rằng Bản lai vô nhất vật. Người không hiểu, chấp vào cái “vô” này, rồi thấy không là không suông, chẳng có gì cả. Phải hiểu rằng tất cả mọi sự mọi việc trên cuộc đời này đều là không, tức tất cả đều là ảo giác. Chúng tađạt đến không là trạm dừng chân để thưởng thức được cuộc sống giải thoát so với khổ đau của phàm phu, chứ đó chưa phải là cứu cánh

Vì vậy, đạt được “Vô nhất vật” rồi, cánh cửa sanh tử bên này đóng thì cánh cửa Niết bàn bên kia mới mở ra, bấy giờ sẽ có “Hữu hoa, hữu nguyệt, hữu lầu đài”, tức phía bên kia còn đẹp hơn gấp bội phần. Chúng ta thấy thế giới này đẹp, cho nên tham đắm; nhưng Lục tổ Huệ Năng dạy chúng ta rằng ở bờ bên kia còn đẹp hơn nhiều, không phải trống không, không phải không suông như mọi ngườinghĩ tưởng. Bờ bên kiaCực lạc của Phật Di Đà, có Niết bàn của chư vị Thánh La hán, có cung Trời Đâu Suất của Đức Di Lặc, v.v…

Và khi nhận thức được bờ bên kiagiải thoát còn có những điều kỳ diệu hơn, tốt đẹp hơn ở cõi này, chúng ta bắt đầu khám phábờ bên kia để hướng tâm đến. Hành giảtu pháp môn Tịnh độ dễ nhận rabờ bên kia. Đức PhậtDi Đà xưa cũng làm vua là Vô Tránh Niệm, Ngài có tất cả những sở hữuvật chất lớn nhất trần gian, vì Ngài là Chuyển luân Thánh vương; nhưng Ngài cảm nhận được sở hữuvật chất này không tồn tạivĩnh viễn và khi hết phước báu, những sở hữuvật chất này liền trở thànhtrần laonghiệp chướng cho mình. Thực tế cuộc sống cho thấy rõ khi có phước, người thân hết lòng với họ, người giúp việc cũng trung thành, thậm chí người chống đối không dám hại mà còn phải làm tốt. Nhờ phước như vậy, họ dễ dàng tạo sự nghiệp lớn lao trên cuộc đời; nhưng khi hết phước, người ủng hộ bắt đầu chống phá, thậm chí con cháu trong gia đình cũng phá hại. Đức PhậtDi Đànhận ra phước này chỉ là tạm bợ trong sanh tử, không đáng để quan tâm. Vua Trần Thái Tông cũng thể hiện ý này qua câu nói nổi tiếng “Ta xem ngai vàng như chiếc giày rách”.

Tất cả phước báu thế gian không đáng quan tâm, cho nên vua Vô Tránh Niệm mới quan tâm cái khác thì mới được Bảo Tạng Như Lai hướng dẫn tiến tu theo Phật đạo. Ngài liền từ bỏ cuộc sống tạm bợ thế gian, xuất gia làm Tỳ kheoPháp Tạng, sống thánh thiện. Từ người có phước báu hữu lậuthế gian mà đánh đổi lấy phước báu vô lậu như vua Vô Tránh Niệm là người biết tu; không biết tu thì phước báu hữu lậu đã có tiêu xài phung phí sẽ hết.

Bảo Tạng Như Lai dạy vua Vô Tránh Niệm chuyển đổi phước báu hữu lậu thành vô lậu bằng cách nào ?   Tất cả những gì nhà vua có đều chuyển thành vô lậu, ví dụ như có tiền thì dùng bố thí, cúng dường; vì bố thí sẽ được người quý trọng, cúng dường sẽ có phước và có phước mới kết duyên được với cao Tăng, Thánh hiền. Kinh nói rõ rằng Ngài thường tham học với tất cả đại thiện tri thức, hay các Đức Như Lai. Nhờ những phước báu là thông minh, có tiền, sức khỏe tốt và sử dụng phước này để tham vấn cầu học, phước của Ngài càng tăng thêm, nên mới có tên là Pháp TạngTỳ kheo; nghĩa là Ngài đã đem phước thế gian đổi thành kho tàng quý báuvô giá, gọi là Pháp. Tu theo Phật, phải triển khai được như vậy. Pháp TạngTỳ kheo có kho báu là phước đứctrí tuệ; phước đức do bố thí, cúng dườngtrí tuệ nhờ học được pháp của Như Lai. Đức PhậtDi Đà khởi đầu cách tu như vậy. 

Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật cũng dạy người tu  cần tri thức, không có Phật nào không xả thânhọc đạo cầu tri thức và chính Đức PhậtThích Ca cũng   đã từng làm như vậy. Tỳ kheoPháp Tạng có kho phước mới dễ dàng tạo thêm phước và Ngài có khả năng hiểu biết mới thâm nhập được tri kiếnNhư Lai. Điều này chúng ta thấy rõ trong cuộc sống, những người không có khả năng hiểu biết thì không thể học được. Có thể nói rằng muốn trí thức hóa nông dân rất khó, nhưng lao động hóa trí thức không khó. Tôi nhận thấy tuy cùng học một lớp, nhưng người thành đạt dễ dàng, người không học nổi vì không có khả năng tiếp thu

Đức PhậtDi Đàtrở thànhgiáo chủthế giớiTây phương Cực Lạc một cách nhẹ nhàng vì Ngài sở hữu kho tàng vô lậusử dụng kho báu này để phát huy lên. Thật vậy, mở đầu, Ngài khai mở một quốc gia gọi là An Dưỡng Quốc để làm nơi tập hợp những người có tri thức và khi tập hợp được nhiều thiện tri thức, Ngài sử dụng kho tàng pháp bảo này thành lập được An Dưỡng Quốc thật sự có toàn những người giỏi, tốt; vì thực tế một người giỏi đến đâu cũng không thể một mình làm được. Muốn được việc, phải tập trung được nhiều người có năng lực thật sự và có đạo đức mà kinh gọi là Đại thiện tri thức

Vì vậy, thế giới của Phật Di Đàxây dựng đầu tiên theo tiêu chuẩn là những người được Ngài mời tới là người sạch nghiệp, trong kinh gọi là hàng Thượng thiện nhân. Nếu tu theo Nhị thừa, thì phải là La hán, Bích chi Phật; nếu tu theo Đại thừa, phải là hàng Nhứt sanh bổ xứA Bệ Bạt Trí. Đó là quy cách của Phật Di Đà, tập hợp những người có tri thứcđức hạnh. Ngài xây dựng được như vậy vì đã học được mô hình Tịnh độ của chư Phật mười phương; nói cách khác, có học và có phước mới làm được.

Từ thế giới Không của Bát Nhã bước qua, liền gặp các thế giới của Phật Di Đà, Phật Dược Sư, Phật Hương Tích, v.v… Có rất nhiều Tịnh độ của chư Phật cho chúng ta đến là bước đầu vào bờ bên kia. Và để đến bờ bên kia, mỗi pháp môn tu có hướng riêng chỉ rõ cho chúng ta; không phải có một con đường lên Niết bàn, hay về Cực lạc, về các Tịnh độ. Ví dụ tôi chuyên tu Bổn môn Pháp Hoa tất nhiên có hướng khác, có cái nhìn khác với những vị tu pháp môn khác. Con đườngPhật đạo qua bờ bên kia theo kinh Bát Nhã, hay theo Tịnh độ của Phật Di Đà, hoặc bờ bên kia theo kinh Pháp Hoa đều có cách hành trì khác nhau và đạt đến kết quả cũng khác nhau.

Riêng tôi, thường xuyên lạy Hồng danhPháp Hoa để tạo mối giao cảm với chư Phật và Bồ tát; vì tôi không biết các Ngài ở đâu, nhưng bằng niềm tintâm kính trọng của tôi đối với các Ngài, nên mỗi ngày tôi lễ bái, tạo mối tương thông với các Ngài. Tôi cảm giác chung quanh mình có Phật và Bồ tát, nhưng vì mang thân ngũ ấm, nên ta không thấy được các Ngài. Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy các Ngài qua niềm tin. Ý này được kinh Pháp Hoa dạy rằng Xá Lợi Phất thuộc hàng trí tuệ bậc nhất mà cũng phải dùng niềm tin vào đạo; vì thật sự chúng ta khó thấy được những gì của bờ bên kia, người nói chưa thấy mà người  nghe cũng không thấy bờ bên kia

Vì vậy, với pháp mônhành trìlễ lạy chư Phật, chư Bồ tát với tất cả niềm tinson sắt, đã tạo cho tôi sự bình an trong lòng. Ở bên bờ sanh tử này, trong thế giới đầy bất an này, nhưng tôi cảm thấyhoàn toànan lành, vì tâm tôi hướng về Phật, Bồ tát. Đem tâm mình gắn kết với Phật này, Phật kia, Bồ tát nọ, nhờ sự gắn kết sâu xamật thiết như vậy, đã giúp cho tôi có được tâm bình an ở bước ban đầu. Và trải qua nhiều năm tu hành, từ độ cảm tâm trong lòng mà cuộc sống bên ngoài của tôi được thay đổi tốt đẹp theo. Những gì tôi thấy trong giấc mơ, trong thiền định, trong suy tư dần dầntrở thànhhiện thực.

Bước đầu tôi chỉ thấy mình đi nghe pháp ở các giảng đường, xa hơn, nghe pháp của các Bồ tát giảng. Trên bước đường tu, tuy thấy như vậy trong giấc mơ, nhưng ít nhất trong tâm thứcchúng ta đã có hạt giốngtốt lành rồi. Mơ thấy đi chùa, lễ Phật, nghe pháp là điều rất quý. Tôi có bạn đồng tu kể rằng trong giấc mơ ông không biết mình là thầy tu, mà lại thấy mình đi chài lưới bắt cá. Một khoảng thời gian sau, ông này trở thành người chài lưới thật. Vì túc nghiệp là chài lưới, nên tu hành, nghiệp này cứ hiện lên và ở trong tiềm thức lâu, nghiệp này trở thànhhiện thực trong cuộc sống. Thưở mới tu, tôi thường mơ thấy chùa, thấy đang tu với Đại chúng, nghĩa là thế giớitiềm thức đã ghi đậm dấu ấn như vậy và xa hơn, tôi thấy trong giấc mơ, mình tụng kinh, thuyết pháp ở nhiều đạo tràng. Theo tôi, giấc mơ và cuộc sống thực tế phải gắn kết với nhau, tức giữa thế giới vô hình và thế giớivật chấthữu hình, giữa tiềm thứchiện thực cuộc sống đã có một sự nối kết chặt chẽ; không phải ảo giác, nhưng là thật.

Tiến xa hơn nữa trên bước đường tu, hành giảPháp Hoanhận ra rằng đi vàocửa Phật tuy bằng pháp phương tiện, nhưng đi qua được bờ bên kia, mới thấy được thiên bá ức hóa thânPhật hiện vào tâm thứcchúng ta và điều quan trọng là tất cả những hóa thân Phật lại hiện thànhthiện tri thức của chúng ta trên cuộc đời này. Như Hòa thượngThiện Trí ngồi kế bên tôi đã là thiện tri thức trong tiềm thức của tôi thì nay trong Ban Tổ chức khóa tu Một ngày an lạc, ngài cũng là thiện tri thức của tôi. Phải khẳng định rằng tu Pháp Hoa không phải là sống với cái ảo, những gì có trong tiềm thức phải có trong cuộc sống của chúng ta

Vào cửa Phật qua giáo phápphương tiệnthực tập pháp phương tiện này, chúng tanhận biết được rằng Phật có thiên bá ức hóa thân với vô sốhành trạng khác nhau. Chẳng những chúng ta thấy ở Việt Nam mà cũng có thể mở rộng tầm nhìn khắp các quốc gia khác. Tùy theo sự tu hành của chúng ta đến mức độ nào thì giấc mơ cũng trải rộng như vậy. Vào cửa phương tiệnthực tập để lần vào thế giới của bờ bên kia và nếu tu Bổn môn Pháp hoa, đạt đến đỉnh cao là vào thế giớiThường Tịch Quang, gọi là Bổn độ; đó là thế giới của Đức PhậtThích Ca hay của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na, tức là Phật gốc.Vì vậy, trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật nói rằng từ ta thành Phậtđến naytrải quavô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp thường ở ta bàthị hiệnsanh thân trong nhiều quốc độ, thuyết pháp, giáo hóavô số chúng sanh

Đến được bờ bên kia, chúng ta thấy thị hiệnsanh thân Phật, thấy các hóa thân Phật cứu độchúng sanh trong khắp pháp giớitiến tuxa hơn nữa, chúng ta mới gặp được báo thânviên mãn của Phật Thích Ca, tức là phước đứctrí tuệ của Phật đã thành tựutrải qua suốt lộ trình Bồ tát đạotừ vô lượng kiếp. Đức Phật nói rằng: Ta tu Bồ tát đạo, cảm thànhthọ mạng dài lâu, đến nay chưa hết mà còn lớn hơn nữa.

Tu hạnh Bồ tát để cảm thànhthọ mạng, nghĩa là tạo thành thânphước đứctrí tuệ mới là điều quan trọng đối với người tu, không phải chết là hết, nhưng càng tu thì phước đứctrí tuệ càng lớn hơn. Phước đứctrí tuệ của Đức PhậtThích Ca vẫn lớn lên mãi theo dòng thời gianvô tận, điều này thể hiện rõ trong Mạn đà la, ở giữa tâm có Đức Phật Lô Xá Na, bốn bên có bốn vị Phật, phía Tây có Phật Di Đà, phía Đông có Phật A Súc, phía Nam có Phật Bảo Sanh, phía Bắc có Phật Thành Tựu. Bốn vị Phật này tiêu biểu cho phước đứctrí tuệ vẹn toàn của Đức Phật Lô Xá Na hiện hữu ở bốn phương. Tu Bổn môn Pháp Hoa, đi sâu vào thế giới tâm, sẽ nhận thấy được các vị Phật này. 

Trên bước đường tu, ở giai đoạn đầu, chúng ta cần học hiểu pháp Phật cho đúng. Sang giai đoạn hai, phải phát huy được đạo lực của chính mình, thấy được các thế giới Phật xung quanhchúng ta. Từ đó, dù có đọc tụng hay không đọc tụngkinh điển, nhưng tâm hành giả đã duyên được với thế giới Thật báo trang nghiêm của Đức Thích Ca, nên thường thấy chư Phật, chư Bồ tát, thường nghe phápthâm nhập vào đạo tràng của các Ngài. Đó chính là loại hình thế giới thứ hai là tâm thức của chính mình.

Thiết nghĩ bằng niềm tindũng mãnh sẽ đi vào được các thế giới này và nhận ra những gì chúng ta đã nói. Bờ bên kiathế giớitâm thức mà nơi đó, chúng tadiện kiến được một Phật cho đến nhiều Phật, vào được các thế giới Phật như Cực lạc của Phật Di Đà, hay Tịnh độ của Đức Di Lặc ở cung Trời Đâu Suất, v.v… và trở lạihiện thực cuộc sống này, chúng ta sẽ gặp được những người bạn tốt, đạo đức đến hợp tác với chúng ta trong các Phật sự. Cao hơn nữa, trên lộ trình hành Bồ tát đạocho đếnthành Phật còn có nhiều loại hình Tịnh độ khác nữa, điều này còn xa đối  với chúng ta, nên không bàn đến. Mong rằng mỗi hành giả trong khóa tu này học và thực hànhPhật pháp, đều xây dựng được Tịnh độ riêng cho mình an trú để phát huy được phước đứctrí tuệ, nuôi lớn được báo thân của chính mình.

Bài đọc thêm:

Hồi đầu thị ngạn (Đại SưTinh Vân) [trong sách Nấc Thang Cuộc Đời]
Hồi đầu thị ngạn (TT. Thích Thông Phương)