- Phẩm 01: Quán Về Nhân Duyên
- Phẩm 02: Quán Về Đi Lại
- Phẩm 03: Quán Về Sáu Tình
- Phẩm 04: Quán Về Năm Ấm
- Phẩm 05: Quán Về Sáu Chủng
- Phẩm 06 – Quán Về ô Nhiễm, Người ô Nhiễm
- Phẩm 07: Quán Về Ba Tướng
- Phẩm 08: Quán Về Tác, Tác Giả
- Phẩm 09: Quán Về Bổn Trụ
- Phẩm 10: Quán Về Đốt Cháy, Bị Đốt Cháy
- Phẩm 11: Quán Về Bổn Tế
- Phẩm 12: Quán Về Khổ
- Phẩm 13: Quán Về Hành
- Phẩm 14: Quán Về Hiệp
- Phẩm 15: Quán Về Có, Không
- Phẩm 16: Quán Về Trói, Mở
- Phẩm 17: Quán Về Nghiệp
- Phẩm 18: Quán Về Pháp
- Phẩm 19: Quán Về Thời
- Phẩm 20: Quán Về Nhân Quả
- Phẩm 21: Quán Về Thành Hoại
- Phẩm 22: Quán Về Như Lai
- Phẩm 23: Quán Về Điên Đảo
- Phẩm 24: Quán Về Tứ Đế
- Phẩm 25: Quán Về Niết Bàn
- Phẩm 26: Quán Về Mười Hai Nhân Duyên
- Phẩm 27: Quán Về Tà Kiến
- Phụ Lục (Chữ Hán)
(MADHYAMAKA SASTRA)
Tác giả: Nagaruna
Dịch và chú giải: HT Thích Thiện Siêu
Nhà xuất bản: TP. Hồ Chí Minh 2001


Lời Giới Thiệu
Trung luận nói rõ là Trung Quán luận. Trung quánđồng nghĩa vớichính kiến trong tám chi chánh đạo.
Thật tướng các pháp vốn là duyên khởivô tính, luôn luôn vắng lặngbình đẳng, siêu việt hết thảy tướng, không vướng vào nhị biên có, không, sinh, diệt v.v… nên gọi là Trung, là Trung đạo. Ngài Tăng Duệ gọi là lý Trung thật. Ở Phẩm Nghiệp nói xa lìađoạn kiến, thường kiến v.v… gọi là Trung.
Quán là lấy trí tuệ chơn chínhq uán sát chánh phápduyên khởitrung đạothật tướng ấy, gọi là Quán.
Như vậy, cảnh sở quán của trí tuệ chơn chính là lý duyên khởitrung đạo trung thật, siêu việt hết thảy tướng.
Luận là ngôn luậnthuyết minh lý trung đạo, trung thật, nên gọi là Trung luận.
Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) làm luận để thuyết minh lý trung đạothật tướng bằng cách quán sát trực tiếp các pháp, phân tích, so sánh, đối chiếu giữa các mặt của mỗi pháp để tìm rathật tính của nó, cuối cùng chỉ thấy các pháp do các duyên mà hiện hữu, không các pháp nào có thật tính, do đó Ngài phá bỏ, phủ định hết thảy kiến chấpsai lầm đối với trung đạothật tướng; không luận đó là kiến chấpsai lầm chung của mọi người, hay kiến chấpsai lầm của ngoại đạo, hay của của các học giả trong bộ pháiTiểu thừa, Đại thừa Phật giáo.
Đối với thật tướng các pháp là siêu việt hết thảy tướng, lại sinh ra tà kiến chấp các pháp thật có sinh, diệt, thật có đoạn thường, một khác, đến đi, trói mở v.v… và khởi lên phiền não, tạo nghiệp, chịu khổ theo tà kiếnchấp thủ ấy. Nếu phá bỏ được các kiến chấpsai lầm đối với thật tướng, thì thật tướnghiện ra trước trí tuệ chánh quán, giải thoát tất cả vướng mắc, đau khổ.
Nếu các chấp kiến đều bị phá bỏ, phủ định, vậy thật tướng ấy có bị phá bỏ, phủ định không? – Thật tướngsiêu việt hết thảy tướng, vậy thì có tướng gì đâu để phủ định, phá bỏ.
Như vậy tất cả đều trống rỗng, có cũng bị phủ định, không cũng bị phủ định, không có gì là hiện hữu phải không? Có hiện hữu chứ. Đó là hiện hữupháp duyên khởisiêu việt các tướng, cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh, cái này không nên cái kia không, cái này diệt nên cái kia diệt. Như trong kinh Tiểu Không thuộc Kinh Trung Bộ Phật dạy: “Thuở xưa và nay Ta nhờ an trú không, nên an trú rất nhiều, ví như lâu đài Lộc Mẫu này không có voi, bò, ngựa, không có vàng bạc, đàn ông đàn bà tụ hội, và chỉ có một cái không phải không, tức là sự nhất trí (ekattam có nghĩa là nhất thống, giải thích) do duyên chúng Tỳ kheo. Và cái gì không có mặt ở đây, vị ấy xem cái ấy là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy tuệ trí “cái kia có, cái này có”. “Cái này đối với vị ấy là như vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiệnhoàn toànthanh tịnh không tính”.
Cùng theo nghĩa ấy, trong luận này có bài tụng “các pháp do duyên sinh, là không, là giả danh, là nghĩa trung đạo” và ngài Trí Giả Tổ sáng lậpTông Thiên Thai ở Trung Quốc đã dựa vào đó mà lập ra ba quán là không quán, giả quán và trung quán.
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận, có người cho là ngài Long Thọ trước tác; có bản Luận Thích của Phật Hộ dựa theo Vô Úy luận mà làm ra; có bản Hiển Cú luận của Nguyệt Xứng, có Bát nhã Đăng luận của Thanh Biện, có Thích luận của An Huệ, đều dựa theo Phật Hộ mà làm ra v.v… Các bản giải thíchTrung luận được dịch ra Hán văn là Trung luận của Phạm ChíThanh Mục (Pingala {Milanetra} Hán dịch âm là Tân già la, dịch nghĩa là Thanh Mục), do ngài Cưu ma la thập dịch, 6 cuốn. Bản Thuận Trung luận của Bồ tát Vô trước, do Cù ĐàmBát nhã lưu chi đời Nguyên Ngụy dịch, 2 cuốn. Bản Bát nhã Đăng luận Thích của Bồ tátPhân Biệt Minh, do Ba La Phả Mật Đa La đời Đường dịch, 15 cuốn. Bộ Đại thừaTrung Quán luận của Bồ tátAn Huệ, do An Dung Tịnh v.v… dịch, 9 cuốn.
Bản Trung luận của Phạm ChíThanh Mụcgiải thích, La Thập dịch rõ và gọn hơn các bản Hán dịch kia, lâu nay được chú ý nhiều (nhiều học giảxưng tán bản sớ giải Trung luận của ngài Nguyệt Xứng [CandraKirti] rất tiếc bản này chưa được dịch sang Hán văn). Ở đây tôi dịch theo bản Trung luận của Phạm ChíThanh Mục thích. La Thập dịch. Tôi cố gắng dịch sát nghĩa theo bản Hán dịch của ngài La Thập hầu giúp các vị muốn đọc được toàn văn trước tác Trung luận của ngài Long Thọ, thay vì chỉ đọc đôi bài nghiên cứu, trích giảngTrung Luận mà thỉnh thoảng mới xuất hiện trên sách báo.
Trong bản dịch này, phần chữ đậm lớn là nghĩa các bài kệ do ngài Long Thọ trước tác; phần chữ nhỏ là nghĩa các lời giải thích của Phạm ChíThanh Mục; những câu chú thích trong ngoặc đơn, xen giữa các lời giải và phần tóm tắt ở cuối mỗi phẩm là của người dịch.
Bản dịch này chắc không tránh khỏi những điều sai sót. Hy vọng tương lai sẽ có bản dịch khác tốt hơn của các vị khác.
Vậy kính giới thiệu đến quí vị độc giả có duyên với Trung luận.
Phật lịch: 2545
Dương lịch: 01-08-2001.
THÍCH THIỆN SIÊU