Tư Tưởng Thiền Học Trần Thái Tông

TƯ TƯỞNGTHIỀN HỌCTRẦN THÁI TÔNG
Như Hùng

tuongvuatranthaitongtuongvuatranthaitongÔng
vua đầu tiên của nhà Trần và cũng là một thiền sư
sỹ, Trần Cảnh (Trần Thái Tông) (1218-1277) đã để lại một
sự nghiệp chính trị, một dòng văn học bất hủ, đến bây
giờ vẫn mãi là kim chỉ nam, ngọn đuốc soi đường trong
đêm dài tăm tối, cho những ai tìm phương vượt thoát, lộ
trình cho những ai muốn đưa dân tộc tìm tới đỉnh cao của
nhân bảnan lạc. Trần Thái Tông được kể như một ông
vua tài giỏi, nhà thiền họcuyên thâm, thành tựu cả hai
phương diện chính trị và tâm linh, nhưng cũng là một ông
vua mang nhiều đắng cay ngang trái trong sự nghiệp chính trị.
Cũng có thể những điều ấy là chất liệu xúc tác, nuôi
dưỡng
để Trần Thái Tôngtrở thànhminh quân, một thiền
lỗi lạc.

(Hình bên: Tượng
vua Trần Thái Tông)

Trần
Thái Tông
từ bỏ ngôi vua, âm thầm lên núi Yên Tử để đi
tu cầu thành Phật, nhưng bằng vào câu nói của Trúc Lâmthiền
” Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta” khiến
tất cả mọi cơ năng sụp đổ, mọi phiền lụyvỡ tung,
nhạt nhòa. Phải chăng câu nói của Trúc Lâmthiền sư như
môt công ántác động, đánh thức, khiến Trần Thái Tông
từ một người với đầy ưu phiền, giờ đây bỗng chốc
thức tỉnh, trút bỏ mọi ngang trái, khổ đau? Nếu không
Trúc LâmQuốc Sư, hẳn đã không có Trần Thái Tông với
tâm linh cao vút, tư tưởnggiác ngộsiêu việt, với
sự nghiêp chính trị mang lại thinh vượng cho Dân Tộc, và đem đến dòng văn học Thiền sáng chói trong lịch sửThiền tông của Phật giáo Việt Nam. Nhờ kết hợp, phát huy
ba thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, và Thảo Đường,
trở thành thiền phái Trúc Lâm, thiền phái duy nhất đời
nhà Trần, một thiền phái nhập thế mang đậm nét Dân Tộc,
dấn thân đi vàocuộc đời, chuyển hóaphiền não, khổ đau
bằng con đường hành động tích cực không xa lánh. Phụng
sự
chúng sanh làm sự nghiệpgiác ngộ, giải thoát, ở ngay
trong cuộc đời trôi nỗi, biến động nầy .


tưởng
Trần Thái Tông vẫn mãi rực sáng trên bầu trời tâm
linh
, hình bóng ông ngã dài theo từng bước vươn lên đi tới
của dân tộc. Công ơn của ông vô cùng to lớn.

Bên
cạnh sự thành tựu của ông, hai nhân vật gây ảnh hưởng
rất lớn mà ta không thể không nhắc đến:

Trần
Thủ Độ
(1194-1264)

Người
có công sáng lập ra nhà Trần, mệnh danh kẻ uy quyền và cũng
là nhà tham mưu đầy chiến lược.

” Người
ta chỉ biết ca tụng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
trong hai trận đánh giặc Mông Cổ (1284-1288), nhưng chính người
đã tạo ra bậc cứu quốc anh hùng ấy là Trần Thủ Độ
thì hậu thế đã lảng quên đi. Cả đến câu bất hủ ” Đầu
tôi chưa rơi xuống đất thì xin bệ hạ đừng lo” Độ nói
cùng vua Trần Thái Tông hồi năm Đinh Tỵ (1257) lúc tướng
Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai đem quân sang xâm phạm lãnh
thổ nước Nam, người đời cũng ít khi nhắc đến”.

Vào
năm Thái Tông 20 tuổi, Trần Thủ Độ bắt buộc ông, phế
hoàng hậu Chiêu Thánh (Lý Chiêu Hoàng) để cưới người chị
của Chiêu Thánh là Thuận Thiên, vốn là vợ của anh mình
Trần Liễu, lúc nầy đã mang thai để phong làm Hoàng
Hậu. Từ đó đưa đến cuộc nổi loạn của Trần Liễu,
khiến Thái Tông lâm vào hoàn cảnh bế tắc, oan khiên, khó
lòng thoát ra được, cho dù ông kịch liệt phản đối. Bởi
lẽ mọi quyền hành đều nằm trong tay Trần Thủ Độ,
vừa là Thái Sư vừa là chú ruột của mình, người có công
đào tạo và dạy dỗ vua từ thuở nhỏ. Thái Tông từ bỏ
cương vị của một quân vương, tìm đến núi rừngYên Tử
để ẩn tu . Nhưng vì Trần Thủ Độ cùng quần thần tìm
đến, bắt buộc ông phải trở vềtrị quốc. Khi tìm gặp
nhà vua ở núi Yên Tử, những lời thống thiết của ông tâu
với nhà vua .

“Thần
nhận sự uỷ thác của tiên quân, tôn phụng bệ hạ làm chúa
tể dân thần. Lòng dân kính yêu trông đợi bệ hạ chẳng
khác nào con nhỏ quyến luyến mẹ cha. Huống chi các cố lão
trong triều ngày nay chẳng một ai không là bề tôi thân thuộc,
chúng dân sỹ thứ chẳng người nào không vui vẽ phục tòng.
Cho đến đứa trẻ lên bảy cũng biết bệ hạ là bậc
cha mẹ dân. Vả Thái Tổ bỏ thần mà đi, nắm đất trên
mồ chưa khô, lời trăng trối bên tai còn đó. Thế mà bệ
hạ lại lánh gót ẩn cư nơi núi rừng, để theo đuổi cái
chí riêng mình. Như thần nghĩ, bệ hạ tính kế tự tu đã
vậy
, nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao? Nếu chỉ để lời
nói
suông lại cho đời sau, sao bằng đem thân mình làm gương
trước cho thiên hạ. Nhược bằng bệ hạ không nghĩ lại
thì chúng thần và người trong nước xin cùng chết ngay hôm
nay, quyết không trở về nữa.” Nguyễn Đức Vân _ Băng
Thanh dịch, trong bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam, Thơ Văn Lý Trần
tập 2, trang 29

Lời của Trần Thủ Độ không chỉ lời khuyên, mà còn là triết
lý hành xử cho bậc đế vương. Nếu không có Trần Thủ Độ
thì không có nhà Trần, người có công đẩy lùi hai cuộc
tấn công của quân Mông Cổ. Một đế quốc mà vó ngựa xâm
lăng đã thống trị gần hết các châu lục, nhưng đã bại
dưới tài dũng lược của Trần Thủ Độ, của Trần Thái
Tông
, cùng tướng sĩ và quân dân nước Việt. Một Quốc
Trúc Lâm khai mở Trần Thái Tông trong lãnh vựctâm
linh
, trị quốc. Một Trần Thủ Độ trong lãnh vực chính trị,
an dân. Nếu luận về công và tội của Trần Thủ Độ,
cho dù khách quan vô tư, ta cũng khó lòng đánh giá đúng mức
về ông, không phải việc ông có lỗi với người nầy, có
tội với người kia, có công với nhà Trần có tội với nhà
Lý, mà trên hết là những đóng góp dài lâu của ông, cho
dân tộc cho hậu thế. Ông có những lý lẽ và quyết địnhcủa riêng ông, nhờ có ông mà dân Việt không đắm chìm trong
nô lệ. Ý thức điều đó, ông quyết tâm cải tổ lại
hội
về nhiều lãnh vực như: kinh tế, chính trị, xã hội,
văn học, làm lợi ích cho quốc gia, dân tộc.

Lịch
sử
từng chứng minh, khi triều đại nầy lên cũng đồng nghĩa
triều đại trước phải kết thúc, khi làm vừa lòng nhóm
người nầy, thì nhóm người khác phải hy sinh, hạnh phúc
cho người nầy sẽ gây kkhổ đau cho kẻ khác. Dù đồng ý
hay không, dù đứng dưới mọi góc cạnh nào để nhận định,
phê phán, thì bóng dáng của ông vẫn hùng vĩ, hìên ngang,
lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc.

Trúc
Lâm
Quốc Sư

Người
đã gây tác động mãnh liệt vào nội tâm của Trần Thái
Tông
, khiến ông thức tỉnh, buông bỏ, hoá giải mọi ưu phiền,
khổ đau, bế tắc. Bằng vào câu nói ” Trong núi vốn không
có Phật, Phật ở trong tâm ta. Nếu bệ hạ giác ngộ được
tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chổ, không cần
phải
đi tìm cực nhọc bên ngoài”

Thiền
khuyên vua trở về trị nước và thường xuyênnghiên cứutu tập ” Đã làm vua thì không còn có thể theo ý thích riêng
mình được nữa. Phải lấy ý muốn của dân làm ý muốn
của mình, phải lấy lòng dân làm lòng của mình. Nay dân đã
muốn vua về thì vua không về làm sao được! Duy có việc
nghiên cứunội điển xin bệ hạ đừng chút xao lãng mà thôi.”
(bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam).

Lời
khuyên
của Trúc Lâmthiền sư, ẩn chứa cả một tư tưởng
thực nghiệm, xử thế cho bậc minh quân,và là hành trang tối
cần để đưa dân tộc đạt đếnvinh quang, thịnh vượng. Nhờ vào sự khai mở tâm linh đó, Trần Thái Tôngnhận ra
được vị trí đích thực của mình, lấy ý và lòng của
dân làm ý và lòng mình, quên thân mình để phụng sự,
thống hợp nhân tâm tạo thành sức mạnh đoàn kết quốc
gia
.

” Trong
bài tựa sách Thiền Tông Chỉ Nam, Thái Tông chỉ gọi vị
thiền sư núi Yên TửTrúc Lâmđại sa môn, tôn xưng là
quốc sư, mà không bao giờ gọi ông là Phù VânQuốc Sư. Vị
thiền sư này là đệ tử của Hiện Quang mà theo Thiền Uyển
Tập Anh
, có pháp danh là Đạo Viên, sách ThánhĐăng Lục,
sách Yên Tử Sơn Trúc Lâm Trần Triều Thiền TôngBản Hạnh
tài liệutruyền thừa chùa Hoa Yên (theo Hoà ThượngPhúc
Điền
) đều nói tên thiền sư là Viên Chứng.
Viên
Chứng hay Đạo Viên hay Trúc LâmQuốc Sư cũng là một người.”
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 1 trang 228.

Nhờ
vào tư tưởngthiền họcchỉ đạo, dẫn lối, Trần Thái
Tông
đã tổng hợp, ứng dụng, sáng soi vùng trời tâm linh,
mở ra những trang sử mới oai hùng cho Dân Tộc, trên nhiều
phương diện: chính trị, văn hoá, học thuật, xã hội, tôn
giáo
.v.v…Giá trị đó ảnh hưởnglâu dài, không phải chỉ
một thế hệ mà còn nhiều thế hệ, không phải chỉ có
một đời mà còn nhiều đời, nó còn xuyên suốt qua
nhiều giai đoạn bi hùng của lịch sử Dân Tộc. Từ đó ta
thấy được tư tưởngsiêu việt, vĩ đại và những đóng
góp nổi bật của ông.

Những
sáng tác của Trần Thái Tông không những giá trị về mặt
tư tưởng, mà còn thiết dụng trong việc hướng dẫn, khai
lối, cho sự hành trì, tu tậpgiác ngộ. Tác phẩm của ông
hiện còn: hai bài thơ, hai bài văn, đề tựa cuốn Kinh
Kim Cương, đề tựa tác phẩmThiền Tông Chỉ Nam, và một
tác phẩmnổi tiếng Khóa Hư Lục.

Những
trích đoạn dưới đây, chỉ một phần nào trong những sáng
tác
của ông:

– Ký
Thanh Phong Am Tăng Đức Sơn

“Phong
đả tùng quan nguyệt chiếu đình

Tâm
kỳ phong cảnh cộng thê thanh


trung tư vị vô nhân thức

Phó
dữ sơn tăng lạc đáo minh”

Dịch
nghĩa:

Gửi
nhà sư Đức Sơn ở Am Thanh Phong

Gió
đập cửa thông, trăng sáng trước sân.

Lòng
hẹn với phong cảnh cùng trong sạchlặng lẽ
Bao
nhiêu thú vị trong đó không ai hay

Mặc
cho nhà sư trong núi vui đến sáng.

Dịch
thơ:

Gió
đập cửa thông, trăng lấp loáng

Lòng
đây, cảnh đấy cùng thanh sảng

Bao
nhiêu thú vị chẳng ai hay

Mặc
kệ
cho sư vui đến sáng.

Nguyễn
Đổng Chi dịch, Thơ Văn Lý Trần, tập 2 quyển thượng trang
21

Trần
Thái Tông
có lẽ sáng tác nhiều về thơ, nhưng do thất lạc
hiện chỉ còn có hai, bài thứ nhất chúng ta đã đọc ở
trên, bài thứ hai: Tống Bắc Sứ Trương Hiển Khanh. Với bài
thơ ở trên, cũng đủ cho ta thấy cảm xúc của ông không
đơn thuần là xúc cảm mà nó hoá thân bay bổng, chuyên chở
trọn vẹnbiểu tượngtâm cảnh cùng hoà nhịp trong sự soi
sáng
rộng mở.

Tựa
Thiền Tông Chỉ Nam:

“Trẩm
thầm nhủ: Phật không chia Nam Bắc, đều có thể tu mà tìm,
tính người có trí ngu, cũng nhờ giác ngộthành đạt.
Vì vậy, phương tiện dẫn dụ đám người mê muội, con đường
tắt sáng tỏ lẽ tử sinh, ấy là đại giáo của đức Phật.
Đặt mực thước cho hậu thế; làm khuôn mẫu cho tương lai,
ấy là trách nhiệm của tiên thánh. Cho nên Lục Tổ có nói:
” Bậc đại thánhđại sư đời trước không khác gì nhau”.
Như thế đủ biết đại giáo của đức Phật ta phải nhờ
tiên thánh mà truyền lại cho đời. Thế thì nay lẽ nào trẫm
không coi trách nhiệm của tiên thánhtrách nhiệm của mình,
giáo lý của đức Phậtgiáo lý của mình ư .”

Đoạn
mở đầu trong bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam, Trần Thái Tông
đề cập đến câu ” Phật không chia Nam Bắc” khiến chúng
ta
liên tưởng đến cuộc gặp gỡ giữa Ngũ TổHoằng Nhẫn
với Lục Tổ Huệ Năng:

Ngũ
Tổ
Hoằng Nhẫn hỏi Huệ Năng: ” Ngươi ở phương nào đến
đây muốn cầu việc gì?”

Huệ
Năng
thưa rằng: ” Đệ tử người ở Lĩnh Nam, vốn chỉ là
một tên thường dân ở Tân Châu, nay lặn lội từ phương
xa đến bái lạy Hòa Thượng chỉ cầu làm Phật chứ không
cầu gì khác.”

Tổ
nói: ” Ngươi là người Lĩnh Nam lại thuộc giống mọi rợ
làm thế nào mà thành Phật được?”

Huệ
Năng
thưa rằng: ” Con người tuy có Nam Bắc, Phật tánh lại
chẳng có Bắc Nam. Tuy thân mọi rợ này không giống với thân
Hòa Thượng nhưng Phật tánh không có gì sai khác.”

Trong
bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam, ta thấy Trần Thái Tông tường
thuật lại bối cảnh của ông nhiều hơn mặt tư tưởng,
khi rảnh rỗi ông thường tham vấnThiền học với những
vị đạo cao đức trọng, nghiên cứu những bộ kinh điển
lớn. Có điều chúng ta cần ghi nhận, nhờ đọc kinhKim Cang
khiến ông giác ngộ. Ông viết ” Trẩm thường đọc kinhKim
Cương
, đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm ” vừa gấp
sách lại ngâm nga, bổng nhiên tỉnh ngộ”.

Vậy
năng lực của kinh Kim Cang như thế nào, khiến Lục Tổ Huệ
Năng
lãnh hộitâm PhậtTrần Thái Tôngtỉnh ngộ ? Câu
” Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm ” nghĩa là “Đừng sanh vọng
tâm
trụ chấp một nơi nào”. Được Lục Tổ giảng như sau:
” Hà kỳ tự tánh? Bản tự thanh tịnh. Hà kỳ tự tánh? Bản
tự sanh diệt. Hà kỳ tự tánh? Bản tự cụ túc. Hà kỳ tự
tánh? Bản vô động dao. Hà kỳ tự tánh? Năng sinh vạn pháp.
Thức đắc thử tâm, diệu tạm viên tịch, bất nệ phương
sở
, bản vô sở sanh”.

Tạm
dịch: Thế nào là tự tánh? Vốn tự nó thanh tịnh. Thế nào
là tự tánh? Vốn tự nó sanh diệt. Thế nào là tự tánh?
Vốn tự nó đầy đủ. Thế nào là tự tánh? Vốn tự nó
không lay động.Thế nào là tự tánh? Nó có thể sinh ra muôn
pháp. Giác ngộ được tâm nầy, kỳ diệu sâu sắc, tròn đầy
lặng lẽ, không bị lệ thuộc vào nơi chốn, vốn tự nó
không từ đâu sanh ra.

Tựa
Kinh Kim CangTam Muội:

“Trẩm
nghe, bản tính sâu trầm, chân tâm trong lặng. Khuyết tròn
đều dứt, tính trí nào tìm được mối manh; tan hợp đều
quên, tai mắt há dự vào hình bóng. Hữu vô nắm được; đạo
tục
san bằng. Sừng sững riêng mình; cao siêu có một. Đó
là dòng sông trọng yếu của tự tínhkim cương vậy.

Thế
chúng sinh từ lâu đã bị thói quen của nghiệp bun nhiễm;
thần thức lại thường chịu sóng gió của tri kiến lung lay,
thì làm thế nào? Rời bỏ nết ô trọc che trùm há chẳng
có ai; song xoay vần sáng tuệ chiếu soi quả chưa được mấy.
Những khiến lang thang khắp chốn; mờ mịt lối về. Khập
khểnh đường đời; rối bời chính đạo. Gốc nguồn khôn
tỏ; thật dối khó phân. Vàng ròng lẫn với đồng thau; trăng
sáng hiện cùng bụi bặm. Quê hương lầm về nơi không chốn;
mặt mũi, quên dáng nét nguyên xưa. Đường Niết Bàn thực
khó tiến lên; việc sống chết rơi vào hữu hạn. Cho nên
thầy ta nhân ái , chỉ bảovô sinhtừ nhẫn; xót thương nỗi
khổ đắm chìm. Tứ hoằng thệ nguyện để lòng; nhọc mệt
tam tư da diết. Phép trong ứng hiện, sao lành soi tỏ triều
Chu; chính pháp tượng về, bóng Phật nằm mơ nơi điện Hán.
Đằng lan chở tới, trúc đán vừa thông; Kinh Phạn dịch ra,
văn hoarực rỡ. Đổi thay lá bối; viết vào lụa hồng. Bể
giáo phơi bày đủ loại trân châu; trời kinh la liệt muôn
vàn
sao sáng. Hoặc muốn tăng thêm nơi chưa ổn; hoặc mong
bồi bổ chổ sót rơi. Nối gót theo nẻo Y- ngô; đưa chân
tiếp đường sa mạc. Không ngại xa mà vượt bể; dốc một
dạ để về Hoa. Từ Hán bắt đầu; đến nay rộng mở. Khuyết,
tròn, đầy, nửa, không chút thiếu ở hòm châu; nhanh, chậm,
thực, quyền, vẫn có thừa trong cặp báu. Kinh Kim Cương Tam
Muội
lẽ nào không phải là loại viên mãn, đốn thực hay
sao? Nếu không thế thì sao đủ đem vô sinh pháp yếu, trổ
phương tiện thần thông?”
Đỗ
Văn Hỷ- Huệ Chi dịch, Thơ Văn Lý Trần tập 2 quyển Thượng
trang 33.

Kinh
Kim Cang
, gọi đầy đủ Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa. Phần
mở đầu, và cũng là trọng tâm của kinh này, bằng vào hai
câu hỏi của ngài Tu Bồ Đề:

“Làm
sao hàng phục vọng tâm?”
“Làm
sao an trụ chơn tâm?”

Vọng
tâm? Mê mờ chấp ngã, chấp pháp, chạy theo nắm bắt mộng,
huyễn, tử, sanh, nên mới điên đảo trôi lăn trong vòngluân
hồi
, sanh tử, không một phút giây dừng lại.

Chơn
tâm? Cái tâm trong sáng tròn đầy, viên dungvô ngại, tỉnh
thức
, vượt thoát ra ngoài mọi triền phược, níu kéo, dính
mắc. “Đừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào”. cũng
là cách ” an trụ chơn tâm” vậy. Đây là phương pháptu hành
của những bậc “xuất trần thượng sỹ”.

Năng
lực
của Kinh Kim Cang phá trừ những mê vọng, chấp trước.
Chặt tan làm tiêu hủyngã chấp, pháp chấp, không một nơi
chốn nào có thể trụ bám được. Công năng của kinh, hiển
bày
sự giác ngộ, làm hưng khởi chơn tâm một cách toàn triệt.

Lục
Tổ Huệ Năng
Kinh Pháp Bảo Đàn, đã ảnh hưởng mạnh mẽ vào thời nhà Lý, Trần, vì thế trong bài tựa Thiền
Tông
Chì Nam, Trần Thái Tông đề cập đến câu ” Phật không
chia Nam Bắc” và trích dẫn lời của Lục Tổ ” Bậc đại
thánh
và đaị sư đời trước không khác gì nhau”. Điều đó
cho thấy sức ảnh hưởng của Đại thừađốn giáothiền
tông
, ăn sâu vào trong tận cùng tâm thứcquảng đạiquần
chúng
.

Trong
Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năngthuyết giảng có đoạn:

“Chư
Thiện tri thức, muốn vào pháp giới cao thâm cùng Trí Bát
Nhã
Tam Muội thì phải tu hạnh Bát Nhã. Phải trì tụng
kinh
Kim CangBát Nhã, tức khắc thấy tánh. Phải biết
các công đức của kinh ấy thiệt là vô lượngvô biên. Những lời khen ngợi trong kinh rất rõ ràng, không thể nói
ra hết được. Cái pháp môn ấy là pháp Tối Thượng
Thừa
, vì người đại trí, vì người thượng căn mà nói. Các người tiểu căn tiểu trí nghe pháp môn ấy, lòng nghi
ngờ
chẳng tin là bởi cớ sao? Ví như các vị Thiên Thần
Long Thần làm mưa xuống cõi Diêm Phù Đề (tức là cõi
Nam Thiệm Bội Châu) thì cả thảy thành, ấp, làng, xóm đều
trôi nổi như lá táo. Còn nếu mưa xuống biển cả, thì
thấy chẳng thêm chẳng bớt. Cũng như người đại thừa,
người tối thượng thừa nghe nói kinh Kim Cang, thì tâm địa
mở mang tỏ hiểu. Cho nên biết rằng Bổn tâm tự nó
có trí Bát Nhã. Bởi Bổn Tánh của mình thường lấy
trí huệ mà xem soi, cho nên chẳng cần dùngvăn tự.
như
nước mưa chẳng phải do trời làm mà có, nguyên bởi
năng lực của nước dấy động, khiến cho cả thảy các loài
hữu tình, các loài vô tình, tất cả đều được gội nhuần. Cả thảy sông ngòi đều chảy vào bể cả, hiệp làm một
thể
. Cái Trí Bát Nhã của Bổn Tánh của chúng sanh cũng
giống như thế”.

“Chư
Thiện tri thức, tâm khônggiác ngộ, Phật là chúng sanh. Một niệm giác ngộ, chúng sanh tức là Phật. Cho nên
biết rằng muôn pháp đều ở nơi Bổn Tâm của mình. Vậy sao chẳng do nơi Bổn Tâm của mình mà thấy liền cái
Chơn Như Bổn Tánh? Kinh Bồ Tát Giới có nói rằng: “
Cái Bổn Nguyên tự tánh của ta vốn trong sạch. Nếu
biết tâm mình và thấy tánh mình, thì thành Phật đạo.” Kinh Tịnh Danh có nói: “Tức thời tâm tríthông suốt, thì
phục hồi đặng Bổn Tâm.” Kinh Pháp Bảo Đàn, phẩm Bát
Nhã
, Hòa Thượng Minh Trực dịch.

– Khóa
Hư Lục: Tác phẩm rất nổi tiếng, tổng hợp nhiều bài giảng,
tiểu luận, thi kệ chia làm ba quyển.

Quyển
Thượng: Phổ thuyết

* Phổ thuyếtTứ Sơn ( sinh, lão, bệnh, tử )

* Phổ thuyếtsắc thân
* Phổ khuyến phátBồ Đề Tâm
* Phổ thuyếthướng thượng nhất lộ

Quyển
Trung: Luận, văn, ngữ lục

* Giới
định
tuệ luận, Thụ giới luận, Niệm Phật luận, Toạ
thiền
luận, Tuệ giáo giám luận, Bình đẳnglễ sámvăn
tự
, Giới sát sinh văn, Giới thâu đạo, Giới sắc văn, Giới
vọng ngữ văn, Giới tửu văn, Ngữ lụcvấn đáp môn hạ,
Niệm tụng kệ ( 43 công án).

Quyển
Hạ: Lục thìsám hối khoa nghi

* Tựa
lục thìsám hối khoa nghi

*
Sáu thời gồm có: Thì sáng sớm, Thì giữa trưa, Thì mặt
trời
lặn, Thì chập tối,Thì nữa đêm, Thì rạng đông,


nhật thì: ( Thì sáng sớm) Dần thì cảnh sách kệ, Sơ nhật
chúc
hương, Hiến hương kệ, Hiến hoa kệ. Khải bạch. Sám
hội nhãn căn tội. Chí tâmkhuyến thỉnh. Chí tâm tùy hủy.
Chí tâm hồi hướng. Chí tâmphát nguyện. Sơ nhật vô thường
kệ
.

Trung
nhật thì: ( Thì giữa trưa) Trung nhật trungchúc hương, Khải
bạch
, Sám hối nhỉ căn tội, Chí tâmphát nguyện, Thử thời
vô thường kệ.

Nhật
một
thì: ( Thì mặt trời lặn) Nhật một chú hương, Khải
bạch
, Sám hốitỵ căn tội, Chí tâmphát nguyện, Thử thời
vô thường kệ.


dạ
thì: ( Thì chập tối ) Hoàng hôn khuyến chúng kệ, Bát
khổ
kệ, Sơ dạchúc hương, Khải bạch, Sám hốithiệt căn
tội, Chí tâmphát nguyện, Thử thời vô thường kệ.

Bán
dạ thì: ( Thì nữa đêm ) Bán dạ chúc hương, Khải bạch,
Sám hốithân căn tội, Chí tâmphát nguyện, Thử thời
thường kệ
.

Hậu
dạ
thì: ( Thì rạng đông ) Hậu dạchúc hương, Khải bạch,
Sám hốiý căn tội, chí tâmphát nguyện, Thử thời vô thường
kệ
.

Trong
sáu thời tu tập, chúng ta thấy Trần Thái Tông chú trọng
đến: Dâng hương hoa, tâu bạch, sám hối, phát nguyện, hồi
hướng
, kệ vô thường. Trong đó có sự thành tâm, trãi lòng,
sám hối sáu căn, hướng nguyện, khuyên răn, nhắc nhở. Nếu
chúng ta biết áp dụngphương cáchtu tập như ông, sẽ mang
lại ích lợi một cách hoàn mỹ, thiết thực.

Phổ
thuyết
tứ sơn: ( Nói rộng về bốn núi)

Tứ
Sơn
, là bốn núi tượng trưng cho sinh, lão, bệnh, tử. Đây
là chặng đường vô thường, có không, cửa ải, mà ai cũng
phải đi qua. Đó là bốn nguyên lý, bất di bất dịch, ta không
thể nào trốn chạy hay lánh né được. Chỉ có đương đầu
trực diện, sống và thở cùng nó, mới may ra làm chủ được
phần nào. Và ta chỉ có thể điều khiển được khi năng
lực
cơ thể, tinh thần còn sung mãn, nhưng khi vô thường,
nhân qủa nghiệp lực, bệnh tật khiến nó yếu đi, hoặc
vì lão, bệnh, tử đến, không khéo lúc ấy nó sẽ điều
khiển ta. Dù có chờ đợi giây phút đó hay không, nó cũng
lù lù xuất hiện, ta bằng lòng hay từ chối nó cũng vẫn
hiện hữu. Khi ta biết tỉnh thứctu tậpvượt qua, biết
thay đổi nghiệp quả số phận, biết làm bạn đồng hành
với sinh lão bệnh tử, cũng là lúc ta nhẫn chịu mĩm cười,
an phận bằng lòng, như thế phần nào ta đã được thảnh
thơi
nhẹ bước. Ta sống trong sự tươi vui, an lạc, trong bình
minh nắng ấm, trên lối đi về của muôn hoa, hay sống trong
hoàng hôn tái tê, lạnh giá với mưa phùn nắng cháy, và sống
như thế nào đều do chính ta quyết định.

Bài
kệ
núi thứ nhứt:

( Chân
tể
huân đào, vạn tượng thành

Bản
lai
phi triệu hựu phi manh

Chỉ
sai hữu niệm vong vô niệm
Khước
bội vô sinh, thụ hữu sinh
Tị
trước chư hương, thiệt tham vị

Nhãn
manh chúng sắc, nhĩ văn thanh

Vĩnh
vi lãng đãng phong trần khách

Nhật
viễn
gia hương vạn lý trình.)

Tạo
hóa khuôn thiêng đúc vạn hình

Vốn
không triệu chứng chẳng mầm xanh

Sai
hữu niệm quên vô niệm
Trái
với
vô sinh hướng hữu sinh
Mũi
lưỡi tham lam hương lẫn vị

Mắt
tai mê mẫn sắc cùng thanh

Phong
trần
thất thểu làm thân khách

Muôn
dặm xa quê cuộc viễn trình.

Đổ
Văn Hỷ, Đào Phương Bình, Băng Thanh dịch, Thơ Văn Lý Trần
tập 2, quyển thượng trang 45

Bài
kệ
núi thứ tư:

(Bãi
đảng cuồn phong quát địa sinh

Ngư
ông túy lúy điếu châu hoành

Tứ
thủy vân hợp âm mai sắc

Nhất
phái ba phiên cổ động thanh


cước trận thôi phiêu lịch lịch

Lôi
xa luân chuyển nộ oanh oanh

Tạm
thời, trần liễm, thiên biên tĩnh

Nguyệt
lạc trường giang dạ hỷ canh).

Một
trận cuồng phong dậy đất bằng

Ngư
ông say khước thả thuyền ngang

Bốn
phương mây kéo màu đen kịt

Một
giải sông reo sóng dậy tràn

Sầm
sập toé tung mưa xối xả

Ý
ầm chuyển vận sấm oang vang

Phút
giậy bụi cuốn chân trời tạnh

Canh
vắng, dòng sông bóng ngyuệt tàn.

Nguyễn
Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 1 trang 253

Cuộc
sống mà chúng ta đang trực diện, phủ vây bởi muôn ngàn
đau khổ, âu lo. Những điều chúng ta mong cầu, nó không
chịu đến, những thứ mà ta khước từ, xua đuổi nó âm
thầm hiện hữu, lôi kéo, xúi dục, khiến ta mãi miết
chạy theo, không biết đến bao giờ mới giật mình thức giấc.
Không khéo, ta hoang phí đánh mất một đời để phải nổi
trôi, chìm đắm trong tử sinh mộng huyển. Ta đi về đâu giữa
phong ba bảo tố, với ngút ngàn thống hận, khi đàng trước
mịt mờ hoang lộ, đàng sau chập chùng muôn vạn nẽo? Làm
sao để giác ngộ, tỉnh thức thắm tô trên nẽo đi về?

Sự
đi lại, tán gẫu, nỗi trôi của tâm thức, khiến ta không
biết cách nhận thức, biết cách sống, biết cách thở, biết
cách tu, nên mãi lăn lộn chìm đắm trong ba đường sáu nẽo
chúng sinh. Cứ thế xoay vần, hết xuống lại lên, lên rồi
lại xuống, đứng ở nơi nầy trông về hướng khác, nắm
được trong tay cái nầy lại lo đi tìm cái kia. Từ trước
đến nay ta chỉ lo ôm vào nhận lấy trong sự tích lũy, chứ
chưa biết cách nhận và cho trong sự hoan hỷ cùng tuyệt. Cái
vòng luẩn quẩn liên kết ấy, ta bỏ một lúc thôi sau đó
tìm cách đeo vào, bỏ lúc nầy lấy lúc khác, bỏ tay này tay
kia tìm cáchlấy lại. Cứ thế ta bị xói mòn, tiêu hao năng
lực
, phí cả thời gian nào ta có biết. Ta chỉ lo tìm cách
thoả mãn bản ngã, nâng niu cung phụng nó cho thật lớn mạnh,
tâm lúc nào cũng chạy nhảy lăng xăng, không một phút giây
bình tâm tỉnh thức, chưa có cơ hội đặt lại vấn đề,
tra vấn với chính ta. Như thế làm sao đi đâu về đâu được?
Nơi an lạc nào để ta đến với hành trang và tâm trạng như
thế?

Phổ
Thuyết
Sắc Thân ( Bàn rộng về sắc thân) ông viết:


Hởi các người! thân là gốc khổ; chất lấy nghiệp nhân.
Nếu tự coi thân đó quả là chân: tức nhận kẻ thù làm
ruột thịt.

Các
người hãy xem lại cho tường, sắc thân kia khi chưa vào bào
thai
thì do đâu mà có? Ấy là do niệm nhóm duyên tụ, ngũ
uẩn
hợp thành. Dáng vóc lầm sinh, hình dung giả lộ. Quên
thực quên gốc: hiện dối hiện hư. Hoặc gái hoặc trai: hoặc
xinh hoặc xấu. Hết thảy đều để cho tâm rời bỏ, không
làm sao trở gót quay về. Nẻo đường sanh tử cứ mãi mê:
mặt mũi nguyên xưa thôi mất hết. Chỉ giương mắt,
bề ngoàixem xét: nào ngoái đầu hướng nội soi nhìn. Khởi
đầu, sinh thực hoá sinh: nơi đến, mộng tràn nói mộng. Lăn
lăn lộn lộn: vội vội vàng vàng. Lấy ảo làm chân: bỏ
không theo sắc. Gáo đầu lâu , hoa cài ngọc giắt: túi da xấu,
xạ ngát hương xông. Cắt lụa là che bọc máu hồng: dồi
son phấn át thùng phân thải. Trang sức bề ngoài như vậy,
vẫn là cái gốc nhớp nhơ. Thế mà không tự thẹn với mình
ư: lại còn chứa lòng yêu thương đắm đuối”.

Kệ
rằng:


vị chân nhân
xích nhục đoàn
Hồng
hồng
bạch bạch mạc tương man

Thùy
tri vân quyển, trường không tịnh

Thúy
lộ thiên biên, nhất dạng san.


vị chân nhân
thịt đỏ au

Hồng
hồng
trắng trắng, lừa dối nhau

Ai
hay mây cuốn, trời quang tạnh

Núi
hiện chân trời, biếc một màu

Huệ
Chi dịch, Thơ Văn Lý Trần tập 2, quyển thượng trang 54

Sắc
thân
là thân do cha mẹ sanh ra, bốn đại ( đất, nước, gió,
lửa) và năm uẩn ( sắc, thọ, tưởng, hành, thức) hợp
thành, tự nó vốn giả hợp. Trần Thái Tông nhờ lãnh hội
được trí tuệ của Bát Nhã, nên phăng ra được cội nguồn
của vô thường, sinh tử. Khi đề cập đến “sắc” tức các
Pháp, còn mang ý nghĩa “sắc bất dị không, không bất dị
sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc” nghiã là:
” các pháp chẳng khác với Bát Nhã (không), Bát Nhã chẳng
khác với các Pháp; các Pháp tức là Bát Nhã (không), Bát Nhã
tức là các Pháp “.
Bồ
Tát
khi quán chiếu, thường nghiệm, thâm nhập, vào biển Trí
huệ
vô tận của Bát Nhã, thấy năm uẩn đều “không” nên
vĩnh viễn, xa lìa các khổ, chứng đắccảnh giớivi diệu,
an nhiên, thường tịch của giải thoát.


vị chân nhân
, còn gọi là “bản lai diện mục”, tức là mặt
mũi thật sự của mình trước khi cha mẹ chưa sanh. Trong tất
cả chúng ta đều tàng chứa Phật tánh, Chân như, thể tánhgiác ngộ, khả năng thành Phật. Khi nào vô minh còn che phủ,
phiền não còn ngự trị, thì Phật tánh ấy không hiện hữu.
Chỉ khi nào quét sạch màng đêm tăm tối cuả vô minh, ánh sáng trí tuệ của tâm thức bùng lên, khi nào đoạn trừ
được khổ đau, phiền não, tức khắc Phật tánh ấy lộ
diện
. Lúc ấy ta hoan ca trong khúc ca chứng đạo, thong dong
trên mọi lối đi về của luân hồi, sinh tử, xa rời
thống khổ phủ vây.

– Phổ
Khuyến PhátBồ Đề Tâm ( Rộng khuyên mọi ngườimở lòngBồ Đề) có đoạn:


Rõ ràng thay, ngày tháng trăm năm chỉ là phút chốc. Cái ảo
thân
tứ đại há được lâu dài. Càng ngày càng đắm trần
lao
, mỗi lúc mỗi vương nghiệp thức. Chẳng hiểu biết sự
viên minh của một tính, chỉ buông tuồng cái tham dục của
sáu căn. Công danh rất mực chỉ là một giấc mộng to, phú
qúy hơn người cũng khó tránh vô thường hai chữ. Cậy mình
cậy nó, rút cuộc thành không, khoe giỏi khoe tài, cuối cùng
chẳng thực.”

” Thanh
sơn đê xứ kiến thiên thoát

Hồng
ngẫu khai thời văn thủy hương”

” Non
xanh nơi thấp trông trời rộng

Sen
đỏ mùa hoa nghe nước thơm.”

Đổ
Văn Hỷ- Băng Thanh dịch, Thơ Văn lý Trần tập 2, quyển Thượng
trang 64

Phổ
Thuyết
Hướng Thượng Nhất Lộ ( Nói rộng về một con đường
tiến lên) :

“Bàn
Sơn có lời thùy ngữ sau đây: “Một con đườnghướng thượng,
ngàn thánh không truyền; học giảvì vậy mà khổ công nhọc
mình như con vượn tìm bắt bóng hình của nó” (hướng thượng
nhất lộ
, thiên thánh bất truyền, học nhân lao hình, như
hầu tróc ảnh). Quý vị học giả bốn phương hãy hướng
về đầu nẻo ấy mà tham thủ lấy thiền ý kia xem sao. Tôi
xin hỏi: các vị làm sao mà “tham thủ” được thiền ý
ấy? Nếu có chủ tâm tham thủ và đối tượng tham thủ thì
cũng như anh chàng gàn điên kia, trên đầu lại muốn thêm
có một cái đầu, sau lưng lại có muốn thêm một cái đuôi,
trong mắt lại muốn có thêm con ngươi, trên da thịt lại có
thêm nhiều cục bướu. Đề tài ấy, nói tới thì môi miệng
cứng câm, nhìn tới thì đồng tử rơi rụng… Ông già mắt
vàng liếc mắt làm ngơ; Hồ tăng mắt xanh dương mi đứng
ngó; Mã Tổ vứt phất trần; Thủ Sơn giấu cào tre; Triệu
Châu
xé áo gai; Vân Môn bỏ bánh Hồ; Đức Sơn liệng gậy;
Lâm Tế nuốt tiếng hét; Phật phật Tổ tổ đều tiềm ẩntung tích, người người ai nấy đều táng đởm kinh hồn.
Đó là một vật dùi sắt đâm vào không được, kim đồng
xuyên qua không thủng, ánh sáng nháng ra từ đá lửa mau thế
mà không đuổi kịp nó, làn chớp trên trời so với nó cũng
còn chậm rì. Chưa thấy được nó thì dù tỉnh ngộ cũng
còn trong làng trầm túy; dù mê man cũng còn dẫm trên đường
sinh
tử; dù đã được phú chúc trên hội Linh Sơn thì cũng
vẫn còn ở trong chốn lậu đậu như thường; dù được Thiếu
Thất
truyền cho thì cũng như còn là trong hang giây quấn. Phải
có cơ dương tinh nhuệ mau như chớp giật, một tiếng hét
cũng khế hợp được căn cơ; phải có ngôn tài thao thao như
dòng sông, hễ thoại đầu đưa ra là giải quyết ngay được.
Tham khảo đi tham khảo lại, sâu ngày dài tháng, nếu không
dám đi trên con đường đèo trơn trợt thì làm sao thoát được
thân phận trong hang sâu núi thẩm?

Này
quý vị, hễ đã tới đây thì chớ bỏ qua dịp quý mà không
tham cứu. Nhiều kẻ học giảđưa mắt nhìn sườn núi cheo
leo, nghĩ rằng khó mà bước tới. Hôm nay vì quý vị tôi không
khỏi đánh liều tay rờ râu cọp, chân đi đầu sào chót vót.
Khi nói, phải biết rằng như gió thổi tung reo; khi im phải
biết rằng như hồ trong trăng chiếu; khi đi, phải biết rằng
như nước chảy mây trôi; khi đứng, phải biết rằng như
núi yên non vững. Lời nào nói ra cũng đều nằm trong kế
hoạch
linh hoạt của Thích Ca; câu nào cất lên cũng đều
phù hợp với gia phongSơ Tổ. Buông đi thì tám chữ mở toang,
nắm lại thì nhất môntuyệt đỉnh, hạng ma quỷ sẽ trở
thành
lâu đài Di Lặc, núi Hắc Sơn sẽ chẳng khác cảnh giớiPhổ Hiền: đâu đâu cũng là đại quang minh tạng, căn cơ
nào cũng là bất nhị pháp môn. Ngại gì ánh sáng đến khi
bóng tối đi, quản chi lúc mây che thì trăng hết tỏ. Ngọc
minh châu nằm lòng bàn tay, xanh thì chiếu xanh, vàng thì chiếu
ánh sắc vàng; gương cổ dựng trên đài: Hồ thì hiện Hồ,
Hán thì hiện Hán. Đâu cần nhìn đến huyễn thể, vì đâu
đâu
cũng là pháp thân, khỏi nhọc đỉnh đầu phóng quang,
vốn sẵn đã có trong sáu thần thôngdiệu dụng. Cung điện
ma vươngđảo lộn, tâm canngoại đạo lật bày; biến trái
đất làm vàng ròng cho quốc gia, đãi nhân thiên lấy sông
dài làm sữa ngọt; chuyển pháp luânthường trực trong lỗ
mũi, hóa bảo tháphiện thực dưới lông mi. Trên sóng nước,
thiếu nữ bằng đá múa khúc Bà Sa, trong mây bạc, người
gỗ
nhạc công thổi sáo ca bài ca lưu khách. Khi gặp vũ trường
liền diễn xuất, lúc thấy chỗ tốt thì nghỉ ngơi; hoặc
đưa tay tìm dắt, hoặc quay về sơn dã, khi biếng nhác thì
theo {chân đám} mây ngủ {trên tảng} đá, lúc hứng chi thì
vịnh nguyệt triều phong; ưu du nơi tửu tứ trà phương, tiếu
ngạo là đường hoa liễu bá.

Hoa
vàng rỡ rỡ, không đâu là tâm bát nhã, tre tím xanh xanh, không
đâu là không lý chân như. Nhổ cỏ dại hiện bản lai diện
mục
, con đường mòn cắt đứt nẽo tử sinh. Hồi đầu cưỡi
ngựa sắt mà về, xỏ mũi trâu bùn đi bước một. Không lấy
một pháp trong vạn pháp làm bạn thì đâu còn sở đắc nào?
Phật cũng không, tâm cũng không, chân cũng đúng mà giả cũng
đúng. Ngoài cửa tam yếu dù hét “nhị” cũng là “tam”.
Đầu đường thập tự có hô “cửu” vẫn là “thập”,
lấy sáo không lỗ tấu khúc vô sinh. Dùng đàn không giây gãy
bài khoái hoạt. Ai ai mà không phải tri âm, đâu đâu lại
chẳng là bè bạn? Một con đườnghướng thượng ấy, làm
sao ta hiểu được? Hãy nghe kỹ nghe kỹ. Ai nghe lọt được
thiền ngữ ấy thì tai sẽ bị ba ngày điếc đặc. Nếu chẳng
nghe lọt, há lại bỏ đi hay sao? Bởi vì nơi nào cũng có những
cây dương xanh có thể buộc ngựa, nhà nào cũng có con đường
dẫn về kinh đô. Đường về dưới nguyệt ít ai đến, một
ánh trăng khuya lạnh khắp miền…” Nguyễn Lang dịch,
Việt Nam Phật Giáo Sử Luận cuốn 1, trang 265-268

Chưa
một ai, và không một ai đủ thẩm quyền để truy tìm một
đinh nghĩa về Thiền. Nó lặng thinh bao trùm lên cõi có không,
vô tận. Dùng trí thứcnăng động, dong ruổi để thẩm tra,
ắt hẳn lạc xa nghìn trùng, quan ải. Nó lãng đãng bồng bềnh
theo mây trời đến đi, hội tụ. Quay mặt lại nó thật gần
mà cũng thật xa như mấy độ quan san, cách trở. Khi nắm bắt,
nó vụt bay không lời từ giả, bặt mất tăm hơi. Tất cả
chỉ có sự diệu dụng trong mỗi hành hoạt, không bị bủa
vây, giới hạn nào kìm toả. Khi nào ta biết quán chiếuthực
tại
một cách liên tục, bền bỉ không sát na, phút giây nào
ngừng nghĩ. Ta phải gõ nhịp liên tục trong tận cùng tâm
thức
, quán chiếu tỉ mĩ mọi biến đổichuyển hướng, dong
ruỗi của tâm thức. Tự mình trãi nghiệm, khai phá nội tâm,
đến khi nào đạt được thâm nghĩa, hành vô hành, thắp sáng
hiện hữu, làm sống dậy sự thức tỉnh vẹn toàn, mở tung
cánh cửa thức giác nhiệm mầu. Khi nào vượt lên trên tất
cả, không níu kéo, tìm cách đóng khung nó trong tháp ngà quan
niệm
, suy luận. Lúc đó ta mới thấy được sự diệu dụng,
vô cùng, đầy linh hiện, và bộ mặt đích thực, vô thủy,
vô chung. Khi ấy ta không còn hoài công rượt theo đuổi bắt,
nó dâng trào sẵn trong ta, cùng ta, trên mọi lối đi về thanh
thoát
.


tưởng
Trần Thái Tông cao thâm diệu vợi, vượt ra ngoài giới
hạn
so đo. Không nằm ở nơi biên kiến, nhị nguyên, đối
tượng nhận thức. Nó chặt tan, làm đóng băng phạm trùngôn
ngữ
, mọi ngôn từ trở nên bế tắt, bất lực. Nó thâm nhập
vào từng dòng lưu chuyển, làm thức dậybản thểtịch nhiên,
hòa nhịp cùng giai điệu giải thoát, cất lên khúc ca chứng
đạo
, làm rung chuyển núi đồi tâm thức, vỡ tungvọng niệm
lăn xăn, làm sống lạibản thểbất biến, vô tận, xưa
nay
.

Đường
về trăng sáng ít ai đến

Một
ánh trăng đêm lạnh khắp miền.

( Hồi
trình nguyệt hạ nhân hy đáo

Nhất
đạo
thiềm quangđại địa hàn )

Niệm
Phật
Luận: (Bàn về niệm Phật)

Niệm
Phật
là điều khởi dậy do tâm. Tâm khởi dậy điều thiện
tức là ý nghĩ thiện. Ý nghĩ thiện khởi dậy thì thiện
nghiệp
báo lại. Tâm khởi dậy điều ác tức là ý nghĩ ác.
Ý nghĩ ác nảy sinh thì ác nghiệp ứng theo. Như gương hiện
ảnh, như bóng theo hình. Cho nên thiền sưVĩnh Gia nói rằng:
“Ai chẳng có điều nghĩ, ai chẳng có điều nảy sinh” là nói
về việc đó.

Nay
kẻ tu hành muốn khơi dậy ý nghĩchân chính để dập tắc
ba nghiệp, cũng là nhờ công niệm Phật vậy. Niệm Phật dập
tắc được ba nghiệp là cớ sao?


rằng trong lúc niệm Phật thân thẳng ngồi ngay, không làm
việc tà, như vậy là tắc được nghiệp thân. Miệng tụng
lời chân chính, không nói điều xằng bậy, thế là tắt được
nghiệp miệng. Ý chăm chú ở sự tinh tiến, không nảy sinh
ý nghĩ tà, thế là tắt được nghiệp ý. Nhưng kẻ trí có
ba hạng. Bậc thượng trí thì tâm tức Phật, không phải nhờ
thêm sự tu hành. Ý nghĩbụi trần không vướng một mảy.
Ý nghĩbụi trần vốn tịnh, cho nên nói ” Như như không động
tức
là thân Phật”. Thân Phật tức là thân ta, không có hai
tướng. Tướng và tướng không phải là hai, lặng lẽtồn
tại
hằng thường. Tồn tại mà không biết đó là Phật sống.

Bậc
trung trí ắt nhờ vào niệm Phật. Chú ý tinh cần, luôn luôn
niệm mà không quên thì tâm mình ắt tự thuần thiện. Ý nghĩ
thiện đã hiện ra thì ý nghĩ ác sẽ bị tiêu tan; ý nghĩ
ác đã bị tiêu tan thì chỉ còn ý nghĩ thiện. Dùng ý nghĩ
ý thức về ý nghĩ thì mọi ý nghĩ đều bị diệt hết.
Khi ý nghĩ đã bị tiêu diệt ắt trở vềchính đạo; lúc
mệnh hết qua đời sẽ được niềm vui cõi niết bàn. ” thường
lạc
ngã tịnh” là đạo của Phật.

Kẻ
hạ trí miệng chuyên cần niệm lời Phật, lòng mong thấy
hình tướng Phật, thân nguyền sinh ở nước Phật, ngày đêm
tu hành chăm chỉ, không thoái chí thay đổi, như vậy đến
khi mệnh hết qua đời sẽ theo ý nghĩ thiện mà được sinh
ở nước Phật; sau đó lãnh hội được chính pháp mà chư
Phật nêu ra và chứng được bồ đề cũng được Phật quả.”
Đổ Văn Hỷ dịch, Thơ Văn Lý Trần tập 2 quyển thượng,
trang 85.

Ông
đề cập đến thân, khẩu, ý, ba vấn đề quan trọng trong
việc gây nên thiện nghiệp hay ác quả, cũng như thành tựusự nghiệpgiải thoát. Một khi ta tăng trưởnglòng từ bi
đến với muôn loài, dâng yêu thương đến muôn vật, từ
tâm
của ta chan hoà khắp muôn nơi, cũng là lúc ta khép lại
phần nào ác nghiệp. Khi ta kiểm soát tâm ý không dong ruỗi
trong phiền não, khổ đau, không tìm cáchtiêu diệt, gây hại
đến muôn loài, khiến ta lúc nào cũng nhẹ nhàng an lạcthảnh
thơi
, cũng là lúc trí tuệ của ta được dịp bừng sáng.
Khi ta hành trì gìới luật, những hưng khởi, tác độngthường
xuyên
được kiểm soát, cũng là lúc ta tự trang nghiêm chính
mình với sự sáng soi của trí tuệ tình thức, dâng hiến
đến cho mình và cho đời đoá hoa an lạc, thường tịnh.

Giáo
niệm Phậtthịnh hành vào thế kỷ thứ mười một, phù
hợp
với tất cả mọi căn cơ nên ta dễ dàng tu tập trong
mọi hoàn cảnh. Niệm Phật đến khi nào đạt đượcnhất
niệm
, chỉ nghe và biết tiếng niệm Phậtvang dội mãi ở
trong tâm mình, niệm Phậtcho đến khi huân tập, thâm nhập,
tàng chứa vào trong tạng thức. Hành động nào cũng có Phật,
suy tư nào cũng thấy Phật ngự trị, cho đến khi Phật tánh
ấy lộ diệnhoàn toàn, thì lúc lâm chung mới đủ năng lựcvãng sanh về cực lạc. Dĩ nhiên về đến đó không có nghĩa
ta kết thúchành trìnhtu tập, mà cần phảitiếp tụcdụng
công
mới mong đạt đượcquả vịgiải thoát.

Tịnh
độ
, không phải pháp môn dành cho người đang sống chỉ lo
hướng về cõi chết, và ở tận mãi phương tây xa xôi nào
đó. Dù chết, chặng đường mà tất cả chúng sanh đều
phải đi qua, nhưng nếu ta dốc lòng chuẩn bị cho mỗi việc
chết, như thế sự có mặt của ta trong cuộc đời nầy hoá
ra vô vị sao? Bởi lẽ sống chết đan xen lẫn nhau, trong sự
sống có bóng dáng của chết xen vào, và chết không phải
sự kết thúcchấm dứt một hành trình. Nó chỉ là chặng
đường đến đi, cái còn lại vẫn là nghiệp quả ta góp
nhặt, cưu mang theo, dù đó là thiện hay ác nghiệp. Đó là
định luật, chân lý bất di bất dịch, không cách nào chạy
trốn
hay xua đuổi được, ta chỉ có thể theo đó thăng hoa
làm tươi đẹp, an lạc, giải thoát. Tất cả mọi con đường
đi đến giải thoát trong đạo Phật, nhằm giải quyết cái
hiện tại ngay bây giờ và ở đây, những nổ lực phải nổ
lực ngay từ đây và trong mỗi phút giây bây giờ của đời
sống
, không đợi chờ đến ngày mai. Nếu ta không an lành
trong hiện tại, nếu ta cứ mãi âu lo, phiền muộn khổ đau,
với chuổi dài nối kết của thời gian lẫn không gian, với
bản chấtvô thườngsinh diệt, có chờ chúng ta đến tận
ngày mai ấy hay không?

Giá
trị
cùng ý nghĩa đích thực của sự sống nơi con người,
không phải nhà cửa đồ sộ, tiền rừng biển bạc, quyền
cao
chức trọng, thông suốtcổ kim, mà là những tu tập, đóng
góp, cống hiến sự an lành đến cho chính ta, tha nhân và muôn
loài. Sự tỉnh thức, giải thoát được huân tập nơi nội
tâm
, là định hướng tốt đẹp cho hiện tại, tương lai và
cũng là nghiệp lựcmang theo cho hành trìnhtiếp nối khác.
Ta không thể về thế giới cực lạc, khi trong ta chất đầy
phiền não, khổ đau, và càng không có nghĩa miệng thì luôn
niệm Phật mà tâm vẫn chạy theotrần cảnh, dong ruỗi mọi
ngõ ngách. Dù cho Đức PhậtA Di Đàphát nguyện độ tận
hết thảy chúng sinh, được vãng sanh về thế giới của ngài,
thì chúng ta cũng khó lòng đến đó được. Niệm Phậtcho
đến
khi nào tự tánhA Di Dà bừng dậy, liên tục không gián
đoạn
ở trong tâm ta, thấy được tự tánhVô Lượng Thọ,
Vô Lượng Quang, Vô LượngCông Đức, đạt đượcniệm PhậtBa La Mật. Lúc ấyCực Lạc thế giới ở ngay hiện tiền,
không cần phải chờ khi nhắm mắt xuôi tay. Ta cần phải tu
làm sao cảnh gìới cực lạchiện hữu trong từng suy
tư, tác nghiệp, chỉ có điều này mới giúp ta vượt thoát,
thăng tiến ngay trong hiện tại, khi ấy ta bước chân về đâu,
nơi ấy biến thànhtịnh độ. Lúc ấy, dù cho qúa khứ hiện
tại
tương lai mặc vần xoay chuyển, ta vẫn hiên ngangtự
tại
trong dòng biến hiện, nổi trôi.

Ngữ
lục
vấn đáp môn hạ: (Ngữ lục hỏi đáp với học trò)

” Một
hôm vua chơi chùa Chân Giáo, nhà sư Đức Thành nước Tống
tiến lên hỏi:

Đức
Thế Tôn
chưa rời Đâu Suất đã giáng xuống vương cung, chưa
lọt lòng mẹ đã độ hết thảy chúng sinh là thế nào?

Vua
đáp:
Muôn sông có nước trăng muôn sông

Vạn dặm không mây trời vạn dặm.

Tăng
nói:

Chưa rời Đâu suất, lọt bào thai
Chỉ bảophân minh đã rõ rồi

Đâu suấtbào thai nay đã rách

Dám mong phân giải một đôi lời.

Vua
đáp:

Mây sinh đỉnh núi bồng bềnh trắng

Nước đến Tiêu Tương một sắc trong.

Tăng
nói:

Mưa tạnh, sắc non phơi

Mây đi, đông sáng ngời.

Thế
nào là ẩn hiện như một?

Vua
nói:

Ngoài đứa con dòng dõi của ta

Ai người dám bước vào đường ấy.

Tăng
nói:

Cổ kim không khác lối

Thông đạt cùng một đường.

Bệ
hạ cho rằng riêng mình Thế Tônđắc đạo hay sao?

Vua
đáp:

Mưa xuân không cao thấp

Nhành hoa có ngắn dài.

Tăng
hỏi:

Người người tự đầy đủ

Kẻ kẻ vốn viên thành.

Cớ
sao Thế Tôn phải vào núi tu đạo?

Vua
nói:

Bởi bất bình, kiếm rời hộp báu

Nhân chửa bệnh, thuốc xuất bình vàng.

Tăng
nói:

Chớ để bụi bám mắt

Đừng cắt nhọt trên thân.

Như
phận kẻ học đạo còn phải có việc tu chứng nữa không?

Vua
đáp:
Nước chảy xuống đồi, không cố ý
Mây ra khỏi núi, vốn vô tâm.

Tăng
không đáp.

Vua
lại nói:

Đừng rằng “đạo” chính “tâm không”

“Tâm không” cách “đạo” một trùng cửa quan.

Tăng
nói:

Đã
coi tâm là không thì cái gì là một trùng cửa quan?

Vua
nhắc lại:

Nước chảy xuống đồi, không cố ý
Mây ra khỏi núi, vốn vô tâm.

Tăng
không đáp.

Băng
Thanh dịch, Thơ Văn Lý Trần tập 2 quyển Thượng trang 106-107

Phút
giây tuyệt vời nhứt đó là ” Mạc vị vô tâm vân thị đaọ.
Vô tâm do cách nhất trùng quan.” và ” Lưu thủy hạ sơn phi
hữu
ý. Bạch vân xuất tụ bản vô tâm”. Tâm không và đạo
biên giới ngăn cách một trùng cửa quan. Có đủ năng
lực
, nội công để đẩy bung cánh cửa nầy không phải một
sớm một chiều và ai cũng có thể làm được. Cõi lòng phải
thảnh thơi, an nhiêntự tại, như nước chảy mây trôi không
vấn vương, níu bắt. Cần phảidụng công trong từng sát
na
, phải liên tục gõ cửa thì cửa mới mở. Đến khi nào
thấy được bản thể của tâm cảnh, nhập lại hoà điệu
thành một, cất lên khúc ca chứng đạo, vượt cả thời gian
lẫn không gian, dịu mát như ánh trăng rằm soi chiếu, chọc
thủng màng đêm tăm tối của vô minh phủ lấp bấy lâu nay.


một cái gì sâu xa trong tận cùng tâm thức bật dậy nổi
lên, khiến ta nổ lực hướng theo. Khi ta không biết đoạn
trừ tiêu diệt cái củ, thì cái mới không có cơ hội phát
sinh, nếu khôngchấm dứtchuyển hoáphiền não khổ đau,
thì an lạcgiác ngộ không có cơ may trổi dậy, nếu không
hất tung xô đẩy cái nầy, thì cái khác cứ nhập nhằng ở
lại đó. Khi nào ta biết dẫn dắt, hoá thânchuyển đổi
làm bạn đồng hành, hướng nó đi về điểm khác, không còn
phiền lụy khổ đau, sống trong trạng tháian tịnh. Muốn
bước vào cánh cửa không môn, tất cả hành trang đều phải
để lại sau lưng, dù đó một niệm một ý bất chợt thoáng
qua, một níu kéo vô tình thức dậy, cũng khiến ta bi đẩy
ngược trở lại. Còn truy tìm Niết Bàn để chứng đắc,
còn tham sân si, chấp chặt một điều gì, thì ta đều phải
trả giá, bị trói buộc phải tốn công nhọc lòng tháo gỡ.
Chặng đường để đến được cánh cửa vô môn ấy, ta phải
làm sao hể đi là đến được, cất bước là đã phóng mình
đến đích. Nó thật mau, thật gần mà cũng quan san cách trở,
không phải một sớm một chiều đến được, khi trong ta đong
đầy bao phiền muộn âu lo khổ sở. Làm sao và làm sao? Một
câu hỏi chỉ có chính ta mới biết cách trả lời, tìm ra
đáp số.

Khi
Thái Tông soạn thảo Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi, không phải
để ông sám hối trong việc phế Hoàng Hậu Chiêu Thánh phong
Thuận Thiên làm Hoàng Hậu, và càng không phải ông sám hối
cho việc dòng họ nhà Trần cướp ngôi, giết chết tôn thất
nhà Lý. Dĩ nhiên các tội lỗi ấy Thái Tông tự nghĩ, không
riêng do Trần Thủ Độ gây ra, mà cảdòng họ và là tội
lỗi
, nhân quả, nghiêp báo của chính mình. Những điều đóđè nặng lên tâm tư, dự phần vào việc ông ngự chế ra
sám pháp ấy. Nhưng ông không sáng tác ra sám hối nầy cho
riêng một ai, và vì một ai. Ông tự sám hốitội nghiệp
của mình đã tác tạo trong nhiều đời nhiều kiếp, và cũng
vì tất cả chúng sanh. Nhưng trên hết đó là sự cảnh tỉnh,
nhắc nhở, sách tấn cho mình và cho mỗi chúng ta trong việc
thẩm định, quan sát, tư duy lại chính mình trong từng phút
giây. Như ông đã nói : “tự làm lợi mình để làm lợi người”.


tư tưởng, văn phong của Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi trong
sáng
, cao thâm, siêu thoát, vẫn chưa được thịnh hành
Việt Nam. Ngược lại bộTừ Bi Đạo Tràng Sám Pháp (Lương
Hoàng Sám
) do vua Lương Võ Đế ở bên Tàu chủ trương, sáng
tác
, lại thịnh hành. Với mục đích dành cho chư Tăng dùng
để tụng sám hối cho bà hoàng hậu Hy Thị, đã nhảy xuống
giếng tự tử và sau đó hóa thành con rắn mãng xà. Về
sau nhờ sự chú nguyện, cùng năng lực của Đại Tăng
được hoá kiếp siêu sanh.

Truyền
thống
văn hoá của Phật Giáo Việt Nam, cùng sự giác ngộchứng đắc, mà thầy tổ cha ông để lại, đã trãi qua mấy
ngàn năm. Chừng đó cũng đủ để chúng ta làm hành trang tu
tập
, gạn lọcthân tâm để đi đến giải thoát mà không
cần thiết phải chạy theo vay mượn, ngóng đợi bất cứ
trào lưu, thời đại nào. Dĩ nhiênchúng ta có quyền dung hòa,
kết hợptư tưởng trong sự rộng mở, soi sángtâm linh, cũng
như trong việc tìm lại chính mình. Nhưng quyết không để
mình bị lệ thuộc, nô lệ, dù đó là sự lệ thuộc vào
tri giác. Đức Phật từng cảnh giácchúng ta, chỉ tin vào
những gì do suy tư, thẩm thấu, do trí tuệ chính mình mang
lại.

Về
khía cạnh bản chất đặc thù, cùng sự tự hào về Dân Tộc
tính, chúng tacần phảiduy trì, truyền bá, phát huy nền văn
hoá dân tộc cho thật lớn mạnh. Cho dù ngàn năm qua bị người
Tàu đô hộ, nhưng ông cha ta đã đẩy lùi sự đô hộ ấy
hàng mấy thề kỷ trước. Không biết người Trung Hoa có dùng
Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi của ta để trì tụng không?


lẽ Trần Thái Tông đã làm cuộc cách mạng, thay đổi phương
pháp
tu tập cho phù hợp với bối cảnh, tâm thức, xã hội
lúc bấy gìờ, từ đó về sau hình thành hai thời công phu
sáng
và chiều, với sự kết hợpThiền Tông, Tinh Độ, Mật
Tông
, thành phương pháptu tậpcăn bản ở thiền môn? Như buổi sáng trước khi thức dậy, ta có giờ thiền tọa,
xong rồi đến thời công phu khuyatụng Kinh Lăng Nghiêm, gồm
Ngũ Đệ và Thập Chú. Buổi trưa Cúng Ngọ, Quá Đường,
Thọ Trai, Kinh HànhNiệm Phật. Buổi chiều có thời công phu
chiều
, tụng kinhSám HốiHồng Danh, Kinh A Di Dà, Mông SơnThí Thực, dâng cúng thực phẩm đến Cô HồnThập Loại,
nhờ thần lực của chư Phật, Bồ Tátnguyện lực của
người trì tụng mà chúng sanh đó có một bửa ăn no đủ.
Buổi tối có thời khóa tụng kinhA Di Đà. Và trước khi đi
ngũ ta có giờ thiền toạ hoặc niệm Phật. Trong cuốn kinh
Thiền Môn Nhật Tụng còn gọi Kinh Nhật Tụng, chúng ta dùng
để tu tập mỗi ngày, sự kết hợp rõ nét lắm có cả Thiền,
Tinh, Mật.

Thiền
tọa
giúp ta tỉnh thức, đạt đượcchánh định, khai mở
nội tâm phát sinh trí tuệ, mỗi khi chúng tathực tập thiền
cần phảikhông gianthời gianthích hợp, trong khi hằng
ngày
ta phải vất vã lo chuyện áo cơm, thời giờ dùng để
tu tập thật là giới hạn. Ta có thể thực tậpniệm Phật
bất cứ nơi nào, ở đâu trong mọi hoàn cảnh, thay vì suy
nghĩ
mông lung, phiền nãophát khởi, nhờ thường xuyênniệm
Phật
khiến tâm ta luôn được an lành. Năng lực, oai lực
của thần chú trong Mật Tông giúp ta tiêu trừ, chuyển đổinghiệp lực, trong tất cả chúng sanh ai lại không bị nghiệp
chướng
dẫn dắt, chi phối. Nếu ta biết cách áp dụng cho
thật thích hợp trong từng hoàn cảnh thì sự tu tập của
mình dễ thăng tiến và có kết qủa. Bởi lẽ trong đạo Phật
vô lượngpháp môn tu, không có pháp môn nào cao hơn pháp
môn
nào. Chỉ có hành giả, người tu thì có cao thấp, do vì
công năngtu tập có sâu, dày, có thật sự dụng công nhiều
hay ít, vì thế sở đắc có mau có chậm, có cao có thấp.
Vấn đề ở chổ, tu làm sao và tu như thế nào để chúng
ta
sớm được an lạc, giác ngộ.

Muốn
khai mở tri thức để đi đến sự giác ngộ, ta cần phải
quật tung nội tại, tự lực nương vào kết hợp với tha
lực
, tâm năng rộng mở linh thông cùng vũ trụ, tiểu ngã
hòa nhịp cùng đại ngã, nội giới, ngoại gìới, căn và
trần, tâm và cảnh. Một khi chưa quân bình được hai đối
cực nội và ngoại, trong và ngoài, những tác động của nó
dù đến từ đâu, đều khiến ta phải, lặn hụp trong phiền
não
, sinh tử. Nếu biết cách đối trị, dung hoà, liên kết,
thì những hưng khởi, níu kéo ấy dù đến từ bên ngoài hay
trong, cũng là phương cách nhằm thẩm định, kiểm tra lại
nội lực đang tìm ẩn ở trong ta. Nhiều khi ta lầm tưởng
mình đạt được sự vững chãinội tâm, nhưng khi gió
bát phong thổi lên ta trở nên cuốn cuồng, mất phương hướngtìm cáchđối phó, vì thế rơi vào khủng hoảng, bế tắc,
đổ vỡ.

Ta
luôn bị đàn áp, lý tưởng hoá, nô lệ, vô minh bao phủ ngăn
ngại. Nên con người thật thuần khiết, bản lai diện mục
chưa có dịp xuất hiện, chỉ khi nào ta để cho bản năng,
tâm thứccon người ấy diệt đi, ta mới làm sống, tái sinh
lại con người thật của mình, được như thế phần nào
ta đã giác ngộ. Đây chỉ là một chặng đường chứ chưa
hẳn sự chấm dứt một hành trình, ta còn phải liên tụcdụng công đến khi nào chấm dứt vòng luân hồi lẩn quẩn,
đạt đượcsự giải thoáttuyệt vời.

Khi
căn và trần gặp nhau, khoảng giữa đó là sự nhận biết
(thức) theo đó dẫn dắt ta đi vào muôn vạn nẽo, ru ta ngũ
say trong sự sai sử. Khiến ta nhiều phen chạy theo, trong sự
bất lực với bao lụy phiền, dẫm đạp lên muôn ngàn nỗi
đau đớn của chính mình và đồng loại, cứ thế ta vung tay
đẩy tất cả rơi vào thống khổ mà không một sự dày vò
hối hận, tiếc thương. Thỉnh thoảng ta chợt dừng lại nhưng
không phải để tra vấn với chính mình mà tìm mọi cách lấy
đà, tiếp bước cho bản ngã, cho phiền não, tham sân si được
dịp ngự trị dài lâu hơn. Chỉ khi nào ta bị bế tắc, thất
bại ê chề, đau đớn phủ ngập lối đi, hơi thở đong đầy
phiền lụy, sinh lão bệnh tử ào ào ập đến. Lúc ấy may
ra ta mới giật mình nhìn lại chính ta, không biết có muộn
chăng vì tuổi già sức yếu, bệnh hoạn, âu lo, đau khổtriền
miên
, luân phiên thăm viếng? Ôi nỗi đau còn hoài, còn
ở lại, còn dài dài, còn mãi mãi, biết đến khi nào?

Muốn
đạt sự tỉnh thức, ta cần khai dẫn, hướng sự nhận thứcđến gần với tâm giác ngộ. Liên tụctư duy, quán chiếuvô thường, biến đổi, sinh diệt của thực tại. Chuyển
hóa
, thăng hoa, nâng tầm nhận thức thấu rõ, thông suốt,
ở bình diện cao mà tâm biến động, nổi trôi, phiền não
không bao giờ đụng đến được.

Ta
đọc vài đoạn để chiêm nghiệm lại con người thật của
mình và cũng để sám hốiba nghiệp, sáu căn.

– Dần
thì cảnh sách chúng kệ: (Bài kệcảnh sách giờ Dần)

Ánh
dương vừa mới hé

Mặt
đất tối rạng dần

Ý
xôn xao trỗi dậy

Hình
tranh nhau phân vân

Đừng
ôm xác chết nữa
Ngững
đầu lên thiền chân

Siêng
năng trong sáu niệm

Mới
khế ngộ cơ thần.

– Sơ
nhật chúc hương: (Lễ chúc hương buổi sớm)

“Phục
dĩ: bóng thỏ về Tây, vầng ô đã rạng: nơi chiếu Phạn,
họp muôn dòng Thanh Tịnh; trên cõi Không, lễ các bậc Thánh
Hiền
. Muốn gửi tin bằng gỗ chiên đàn; phải kính đốt
xông loài hương báu. Hương này, trồng từ rừng Giới Luật,
tưới bằng nước Thiền Na; chặt trong vườn Trí Tuệ, đẽo
bằng đao Giải Thoát. Hương không dùng rìu búa sức người
mà hình thể tự nhiên tự kết. Đốt nén bảo hương Tri Kiến;
kết thành đài mây Quang Minh. Lúc hương xông khắp chốn thơm
tho; nơi khói tỏa đầy trời ngào ngạt. Nay nhân buổi sớm,
đốt hương cúng dường”.

– Hiến
hương kệ: (Bài kệdâng hương)

Ngào
ngạt trầm hương rừng chính định
Chiên
đàn
vườn tuệ đã vun trồng
Giới
đạo
đẽo gọt nên hình núi

Đốt
tại lò Tâm để hiến dâng

– Hiến
hoa kệ: (Bài kệdâng hoa)

Hoa
nở sáng ngời trên đất tâm

Hoa
tiên rải xuống chẳng thơm bằng

Hái
dâng từng đóa lên chư Phật

Gió
nghiệp
muôn đời thổi chẳng rung.

Nguyễn
Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập 1 trang 256-257

Chí
tâm
khuyến thỉnh: (Dốc lòng khuyên mời)

Kính
xin chư Phật mười phương
Thánh
hiền
, Bồ Tát cùng hàng tăng ni
Mởtâm vô lượngtừ bi
Chúng
sinh
vượt độ sông mê đến bờ.

Chí
tâm
phát nguyện: (Dốc lòng phát nguyện)

Một
nguyền rộng khai đườngchính kiến
Hai
nguyền vừa dụi mắt tinh nhanh

Ba
nguyền xem hình không quyến luyến
Bốn
nguyền thấy sắc chẳng bận tình

Năm
nguyền đầu mê mau sớm tỉnh

Sáu
nguyền mắt tuệ tự viên thành
Bảy
nguyền mộng đời đừng đắm đuối
Tám
nguyền giữ mãi tính anh minh

Chín
nguyền nhìn đời, mờ tối mất

Mười
nguyền ngó lại, huyễn hoa đình

Mười
một nguyền xa trông mây chướng cuộn

Mười
hai nguyền chớp mắt nghiệp băng thanh.

Băng
Thanh dịch, Thơ Văn Lý Trần tập 2, quyển Thượng trang 168,172

Sám
hối
ý căn tội: (Sám hốitội căn do Ý)

“Dốc
lòng sám hối, bọn chúng tôi từ vô kiếp tới nay, bỏ mất
bản tâm, không hay chính đạo. Đoạ ba đường khổ: bởi
sáu căn sai. Không sám hối trước, khó ăn năn sau.

Tội
căn
ý là: Vấn vươngnghĩ ngợi, không lúc nào thôi, mắc
mưu tình trần, lấp tâm chấp tướng. Như tằm cuộn kèn càng
buộc càng dăng, như bướm lao đèn tự thiêu tự đốt. Hôn
chẳng tỉnh, điên đảo sinh càn; quấy nhiễu tất lòng,
đều do tam độc.

Tội
keo tham là: âm mưughen ghét, keo cú vét vơ, mười vốn nghìn
lời, còn cho chưa đủ. Của như sông chứa; lòng tự chén
rò. Rót vào lại hết; nên nói chưa vừa. Tiền mục thóc dư,
chẳng cưu đói rét; lược chồng lụa chất, nào có giúp ai.
Được người mấy chục, chưa nói là nhiều; hại đến một
đồng, cho là hao lớn. Trên từ châu báu; dưới đến tơ gai.
Kho đụn chất đầy; chưa từng bố thí. bao nhiêu sự việc,
ngày tính đêm lo; khổ tứ lao thần, đều từ tham nghiệp.

Tội
giận giữ là: căn tham là gốc; lửa giậntự thiêu. Quắt
mắt quát to; tiêu tanhòa khí. Chẳng riêng người tục; cả
đến thầy tăng. Kinh luậntranh giành; cùng nhau công kích.
Chê cả sư trưởng; nhiếc đến mẹ cha. Cỏ nhẩn lụi vàng;
lửa độc rực cháy. Buông lời hại vật; cất tiếng hại
người. Không nghĩ từ bi; không theo luật cấm. Bàn thiền
tựa thánh; trước cảnhnhư ngu. Dẫu ở cửa không chưa thành
vô ngã. Như cây sinh lửa; lửa cháy đốt cây. Những tội
trên đây đều do nghiệp giận.

Tội
ngu si là: căn tínhđần độn; ý thứctối tăm. Chẳng hiểu
tôn ti; chẳng chia thiện ác. Chặt cây hại xác; giết gấu
gãy tay. Mắng Phật thánh tai; nhổ trời ướt mặt. Quên ơn
quên đức; bội nghĩa bội nhân. Không xét không hay, đều
vì si nghiệp.

Các
tội như vậy, rất nặng rất sâu; đến lúc mệnh chung, phải
sa địa ngục. Qua nghìn vạn kiếp, mới được thụ sinh; nếu
được thụ sinh, lại thành người độn. Nếu khôngsám hối,
sao được tiêu trừ. Nay ở Phật tiền, thảy đều sám hối
” Băng Thanh – Đổ Văn Hỷ dịch, Thơ Văn Lý Trần tập 2 quyển
thượng trang 218-219

Sám
hối
là một phương pháp trãi lòng, dâng hiến, đối diện
với chình mình, với những nghiệp quả do mình tác tạo trong
hiện tại và trong vô lượng kiếp số về trước. Đem tất
cả phơi bày, cùng với tâm thành, hướng về chư Phật, chư
Bồ Tát, thành tâmsám hốiphát nguyện không bao giờ tái
phạm
. Một khi ta biết cách làm sống lạicon người
thật của mình, khai quật bản thểgiác ngộ, Phật tánh,
đang có sẳn trong chúng ta và trong tất cả chúng sanh, liên
tục
gìn giữduy trì, quyết không tái phạm, lúc đó ta mới
thấy được ý nghĩasám hối thật sự.

Từ
trước đến naychúng ta luôn sống trong sự tích chứa, góp
nhặt mỗi ngày một ít phiền não khổ đau, cứ thế nó đong
đầy trong ta từ lúc nào mình không hề hay biết. Ta chỉ biết
nổ lực để cầu, để xin, để nhận, để được ân sủng.
Chứ chưa biết nổ lực để cho, để đền, để tặng, để
dâng hiến. Ta chưa biết cách buông xã, nên cứ chìm dần
chìm xuống mãi, do vì cưu mang, nhận vào chứ không chịu cho
ra, nên không có dịp thoát khỏi, cứ mãi đắm chìm trong sinh
tử luân hồi
. Bởi vì những thứ mà ta có được cũng chỉ
là sự trá hình biến dạng khiến ta lầm tưởng là thật,
đúng ra nó đang bị vô thườngchi phối huỷ hoại. Chỉ khi
nào ta biết thực tập cách buông bỏ, hoan hỷ, biết cách
phá trừ chấp ngãchấp pháp, khi nào đạt được
lẽ của chân thườngbất biến, lúc ấy có không, được
mất, không làm hề hấn, ta mới thật sự nhẹ nhàng đến
đi không ngăn ngại.

Hình
như nỗi khổ đau gặm nhắm, những nhập nhằng gian khổ ăn
sâu, thấm vào trong tận cùng tâm thức của ta từ thưở nào.
Từ thuở cha mẹ chưa sanh ra, từ vô lượng kiếp số, nó
cứ dai dẳng bám theo, đeo mãi mà không có cơ hội trút bỏ
được, cứ mãi lang thang phiêu bồng trầm luân trong sinh tử.
Ta chỉ có thể thoát ra, là lúc ta tìm thấy một hành trình
mới, một sự huân tập khác, làm thay đổi toàn bộ cục
diện cũng như bản chất từ ngàn xưa. Điều mới đó, là
sự thay đổi, hoán chuyểnthói quentập khí trong nhiều đời,
trong mọi suy tư và hành động, thì những khởi dậy đó sẽ
mang hương sắc tươi đẹp, an lạc, giải thoát.

Hầu
như trong tất cả sáng tác của Trần thái Tôngcuối cùng
đều dùng đến thi ca, thi kệ làm biểu tượng, chuyên chở
nội tâmgiác ngộ. Có thể lối diễn đạt, xử dụng thi
ca
trong ngôn ngữdễ cảm nhận, và tiến đến gần với chúng
ta
hơn. Nó đòi hỏi kẻ thưởng ngoạn phải tư duy đúng
mức, để bắt được tần số cung bậc, nếu không sẽ hoài
công vô ích. Trong công án, thi kệ, ngôn ngữthi ca trở nên
quyền biến, linh hoạt, cô đọng. Vì thế dễ đánh động
tâm thức của kẻ đối diện, khi kẻ ấy biết vận dụng
thắng duyên nội tại, bởi lẽ khi nó vụt khởi, không đi
qua chặng đường suy luận, so đo, mà do huân tập bởi trí
tuệ
, tỉnh thức mới có được. Điều nầy nói lên công
phu
tu tập ở mỗi tâm năng, sự tàng chứa trong mỗi tâm thức.
Ở đây chỉ đề cập đến sự mở tung, đồng cảm, bắt
nhịp của tâm thức, như sự” gảy mỗ” một thuật ngữvi
diệu
của thiền. Vì lẽ nếu dùng trí thứcnăng động để
dệt nên, sẽ có bóng dánggiả hợp của sắc không, bản
chất
vô thường của ngôn ngữ, và sự ngự trị của
minh
, như thế sẽ không đi qua được chặng đường truy cập
tự thể. Nếu vậy, ta vẫn là kẻ đứng bên ngoài để ngắm
nhìn
, phê phán, chưa có dịp xúc tác vào bên trong, làm cho
ta càng rời xa giác ngộ hơn. Vì lẽ giác ngộ một khi khởi
lên, sẽ đẩy lùi tất cả, như ánh sáng bừng lên tức khắc
bóng tối phải tiêu tan. Cái khó, và sự cùng tuyệt của giác
ngộ
là mức độ huân tập, tỉnh thức, duy trì có dài lâu,
có sâu dày ở trong ta hay không?

Công
án
, sự chứng ngôn bằng ngôn ngữ, một thứ siêu ngôn, vượt
ra ngoài mọi cấu tạo, phá vỡ giai tầng, nối kết của tâm
ý. Nhằm phong toả tâm thức của thiền sinh, khiến rơi
vào thế bí, cùng quẩn, với sự tra vấn, đánh động, gõ
nhịp liên tục, khiến tâm thức không có chổ nương dựa,
trụ bám vào đâu, không một kẻ hở để ý thức có dịp
xen vào lũng đọan, níu kéo. Xoay tất cả năng lựcliên tục
đánh vào một điểm duy nhấtcho đến khi nào nó vở tung
ra, trông thấy thật sự những bí ẩn chôn dấu đàng sau,
đó là cái gì ra sao. Như tiếng sấm nổ vang dội khiến
ta giật mình choàng tỉnh, như cơn nước lũ cuốn phăng tất
cả, không lưu lại dấu vết. Chỉ có tác động, quật
khởi, thường nghiệm trong sự rộng mở, và trong sát na nào
đó tức khắc ta bừng lên giác ngộ.

Hình
thức
công ánxuyên quaniệm tụng của Trần Thái Tông, như
là một nghi thức, một kỷ thuật, một phương cáchhiệu
nghiệm
, nhằm kiểm soát sự đi lại, phóng ý, của tâm thức.
Bằng vào con đường thường nghiệm xuyên qua cửa ngõ thân
và ý, tâm và hành, song song trong việc xoáy thẳng, đập vào
tận cùng mọi ngõ ngách, khiến cho giác ngộ vụt khởi. Nó
tạo nên sự bắt nhịp nhẹ nhàng không gây thương tổn, khủng
hoảng cho tâm thức. Tưạ như làn gió mát thổi lùa qua khung
cửa, làm cho tâm hồn rộng mở hân hoan, bao nhiêu chiêm bao,
mộng mị, ngũ say nào đó ở trong ta có dịp cựa mình tỉnh
giấc
.

Ta
thử đọc và chiêm nghiệm một vài công án trong số 43 công
án
Thiền của ông.

Công
án
một:

Nêu:

Thế
Tôn
chưa rời đâu xuất đã giáng xuống cung vua, chưa lọt
lòng mẹ đã độ hết thảy chúng sinh.

Niệm: Gươm giáo chưa cầm

Tướng tài đã lộ.

Tụng: Chưa hình ấu tử, chửa rời quê

Đêm thẳm đưa người qua bến mê

Cao bước dạo chơi ngoài khoảng cách

Không cần thuyền bản với phao bè.

Công
án
thứ năm:

Nêu:

Thế
Tôn
lên toà. Văn Thù Bồ Tát thưa rằng: thấu suốt phép của
Phật, Phép của Phật là như thế.

Niệm: Đàn không giây gảy khúc dương xuân

Vang mãi muôn đời âm chẳng dứt.

Tụng: Từng câu từng tiếng, không tỳ vết

Sừng giấu nhưng đuôi vẫn lộ ra

Thôi lấy ống tre thay sáo trúc

Vì người dạo khúc thái bình ca.

Công
án
thứ mười:

Nêu:


tổ
nói từ sau loạn rợ Hồ ba mươi năm chưa từng thiếu
tương muối.

Niệm: Mặc dù chẳng phạm mảy may.

Vẫn là cầm bánh liếm tay.

Tụng: Bình sinh đánh bạn với ma men
Nhà ở thường như quán rượu quen

Vi thử khoe mình người láu lĩnh

Giữa đường phải cởi áo cầm tiền.

Công
án
thứ bốn mươi ba:

Nêu:

Từ
Minh
hỏi Chân Điểm Hung về đại ý Phật pháp.

Chân
đáp: Mây “không ” sinh
đỉnh núi

Trăng ” có” rơi đáy sông.

Minh
quát: Đầu đã bạc, răng đã vàng mà còn kiến giải như
thế à? Chân rơi nước mắt hầu lâu thưa: Chẳng hiểu thế
nào là ý lớn về Phật pháp.

Minh
nói: Mây ‘không” sinh đỉnh núi.

Trăng “có” rơi đáy sông.

Chân
bừng tỉnh ngộ.

Niệm: Người nhân thấy nó bảo là nhân.

Người trí thấy nó bảo là trí.

Tụng: Đây, đó cùng rung một điệu cầm.

Lòng riêng nhắn nhủ bạn tri âm.

Mây “không”, trăng “có” tuy cùng dạng.

Khác ấy: sơn cao và thủy thâm.

Hứ!

Chạy vạy suốt ngày trong bụi đỏ

Trong nhà, của báu có không hay.

Hừ!

Buông tay, không dựa, tính phơi bày

Thuyền trú hoa lau, chài ngũ say.


Hữu Nhiệm- Băng Thanh dịch, Thơ Văn Lý Trần, tập 2 quyển
thượng, trang 136,137,139,150.

Khi
đến gần, đối diện với bệnh tật sống chết, khi thước
phim nhân quảnghiệp lực tàng chứa trong tâm thức, chủng
tử
bùng lên, giành giựt, quyết định. Cũng là lúc nghiệp
lực
nặng nhẹ vi tế, theo đó dẫn dắt ta đi về nơi ấy.
Tất cả nhửng tác tạo ở tại thế giới nầy, ở ngay nơi
đây, ở ngay lúc nầy, đều phải giải quyết cũng tại nơi
chốn nầy. Ta té xuống đất cũng phải vịn đất mà đứng
dậy
, chờ để được về thế giới nào khác không biết
nó có không? Bởi lẽ ta sống thở ở nơi đây, ở ngay hiện
tại
nầy, nếm đủ buồn vui, liên tục bị đau khổhành
hạ
, lại bị chính cái ta, cái bản ngã ấy quấy rầy, lừa
dối, ru ngũ. Khiến ta phải khổ đau ê chề, từ ngày này
qua ngày khác, không một phút giây nào dừng lại, không có
dịp xem lại chính mình. Ta không thể chờ đợi về thế gìới
khác mới lo giải quyết, không biết nó có tồn tại hay không,
hay đó chỉ là sự hình dung tưởng tượng, ru ta ngũ để
dễ bề sai khiến? Sự thật nó nằm ở trong ta chứ không
nằm ở nơi khác, ta sống như thế nào, ta chết cũng như thế
ấy, ta đau khổ trong hiện tại, thì liệu ta có an lạc trong
tương lai?

Lúc
Trần Thái Tông sắp bước vào thế giới của sinh ly tử biệt,
ông còn minh mẫn đã là hy hữu rồi, càng hy hữu hơn, khi
ông vẫn còn tỉnh thứcan lạc, để trả lời những sở
đắc về Phật pháp. Chừng đó, khiến cho ta cúi đầu quy
ngưỡng
trước nội tâmchứng ngộtuyệt vời ở nơi ông.

” Khi
Ngài nằm trên giường bệnh, vua Trần Thánh Tông vào thăm,
nhân hỏi về đạo Phật:

Chân
không
với ngoan không là đồng hay dị?

Vua
Thái Tông đáp:

– Tự lòng mê hay ngộ nên có “chân” và “ngoan” khác nhau, còn
Hư không vẫn là một. Ví như cái nhà ở, mở cửa ra thì
sáng, đóng cửa lại thì tối. Sáng tối dẫu khác nhau, nhưng
cái nhà thì vẫn chỉ là một.

Bửa
sau Quốc Sư Đại Đăng vào vấn an, hỏi Ngài:

– Bệ
Hạ mắc bệnh đấy ư?

Ngài
đáp:

– Tấm
thân tứ đại vốn là bệnh rồi, còn Chân Tánhnguyên lai
đối với sinh tử còn chẳng dính dáng gì đến thay huống
chi là bệnh.

Sau
đó vài ngày, ngài lặng yên không nói, xua hai bên tả hữumọi người lui ra, trối trăng việc nước lại cho con là vua
Trần Thánh Tông.

Vua
Thánh Tông muốn sai Quốc sưPhù Vân và Đại Đăng vào
diễn cái phép xuất thế gian. Vua Trần Thái Tông lớn tiếng
nói:

– Đến
lúc này bớt đi được mảy tóc nào thì dường như cắt được
cái nhọt trên thịt; thêm vào mảy tóc nào thì khác nào rắc
bụi vào mắt. Phù Vân bàn huyền, Đại Đăng nói diệu, đều
là lời thừa cả, có ích gì đâu?

Rồi
Ngài tịch ở Vạn Thọ cung, giữa ngày một tháng tư năm Bảo
phù thứ V (1277) đời vua Trần Thánh Tông, táng ở Chiêu Lăng”.

Hình
như sinh tử, vô thường, đến đi không làm hề hấn những
con ngườitự tại, giải thoát. Sự có mặt của họ ở trong
cuộc đời này chỉ là sự dừng chân hoá độ, thăm hỏithế gian và rồi sau đó ung dung rũ sạch tấm thân tứ đại
nhẹ bước vân du trong sự chuyển tiếp vì hạnh nguyệnđộ
sanh
khác. Người đi về cõi vô sinh diệt, hương trí tuệgiác ngộ, trần gian nghìn năm còn đọng lại.㑃㤥