Truyền Thống An Cư

TRUYỀN THỐNGAN CƯ
Khánh Uyên

truyen-thong-ancutruyen-thong-ancuKhông như các tôn giáo khác có thể có những cấm điều hay định chế được thiết lập sẵn dựa theo chủ quan của vị giáo chủ, mọi định chế của Phật giáo đều xuất hiện sau khi Tăng đoàn đã được thành lập. Đức Phật vốn là người tự mình đạt tới giác ngộgiải thoát, sau đó, đã vì lòng từ
mà trao truyền trí tuệ của Ngài cho muôn loài. Vì không có ý địnhxây dựng một tôn giáo để đóng vai giáo chủ, Đức Phậthoàn toàn không có thiên kiếnchủ quan trong việc thiết lậpnghi thứcsinh hoạt, chỉ căn cứ
vào
nhu cầu thực tiễn của Tăng đoànấn định luật cho Tăng chúng. Rất
nhiều trường hợp, chính cộng đồngchấp nhậnTăng đoàn của Đức Phật đã có những đóng góp cho việc xây dựngtruyền thốngsinh hoạt của Tăng đoàn. Truyên thống an cư là một minh chứng cụ thể nhất.

Dưới thời Đức Phật, không khí truy cầu chân lýẤn Độhết sức nhiệt náo. Nhiều giáo đoàn rao giảng các luận thuyết khác nhau về sự hình thành vũ trụ, về bản chất của cuộc sống… Nhiều người từ bỏđời sốnggia đìnhtham giasinh hoạt cúa các giáo đoàn, sống cuộc sống khổ hạnh hay truy lạc tùy theoniềm tin của mình với mong ướcthực hiệnchân lýgiải thoát. Họ đi khắp xứ Ấn Độ để truyền giáothu phụctín đồ. Tuy nhiên,
vào mùa mưa, họ có thể quy tụ lại với nhau ở một số trú xứ nhất định hoặc giải tán chờ đến lúc tập họp lại. Mặt khác, trong thời gianliên kết với các giáo đoàn loại này, vị tu sĩvẫn có những liên hệ với gia đình. Tăng đoàn của Đức Phậthoàn toàn khác. Tỳ-kheo thuộc Tăng đoàn của
Đức Phậthoàn toàn sống theo hạnh viễn ly, lấy trung đạo làm phương trâm, thực hiện việc khất thực để duy trìthọ mạng, tài sản chỉ có ba y một bát, buổi sáng vào làng khất thực, trước giờ ngọ tìm chổ thọ thực, thời gian còn lại thực hànhquán niệm hay thiền định để hiều rõ lời Phật
dạy
và chứng đạt chân lý. Cuối cùng, các Tỳ-kheo nghỉ chân dưới một gốc
cây có tán lá, một tảng đá, hay một hang động, gần nơi có nước, không quá xa làng mạc, ở chỗ tránh được rủi ro về ác thú, cướp bóc… Đặc biệt, các Tỳ-kheo không được ở quá ba đêm tại cùng một chổ. Đây là biện pháp nhằm triệt đểtiêu diệttâm sở hữu, vì ngay cả chỗ nghỉ chân giữa nơi khoáng dã cũng không phải là “gốc cây, tảng đá, hay hang động của tôi” để có thể củng cốquan niệmngã sở. Như thế, trong giai đoạn đầu, Tăng đoàn của Đức Phậthoàn toàn không có trú xứ nhất định. Vào mùa mưa, các Tỳ kheo cũng vào làng mạc khất thực và điều này có nhiều bất tiện. Mùa mưa là lúc cây cối đâm chồi nảy lộc, trời mưa làm nước tràn ngập mặt đất
ảnh hưởng đến hang ổ của các loài bò sát, côn trùng. Khi đi lại trong mùa mưa, các Tỳ-kheo làm ảnh hưởng đến sự phát triển của cây cối, có thể
dẫm dạp lên côn trùng hay bò sát nhỏ mà không biết, lại có thể vì các loài nọc độc tấn công; ngoài rathói quen ngủ nơi khoáng dã của các Tỳ-kheo không thực hiện được. So sánh với việc an trú trong mùa mưa của các giáo đoàn khác, dân chúng chỉ trích việc đi lại trong mùa mưa của Tăng đoànĐức Phật. Công nhận sự chỉ trích đó là chính đáng, Đức Phậtthiết lậpquy định cho các Tỳ-kheo được tìm chổ trú ngụ trong ba tháng mùa mưa. Điều khác biệt với những giáo đoàn khác nằm ở chổ, đệ tử Phật an cư ba tháng không chỉ để tránh đi lại trong mùa mưa, mà còn tận dụng thời gian ở yên một chổ để thực hiện việc tu họcgiáo hóa một cách tích cực.

Thực ra, từ chổ hằng ngày các Tỳ-kheo đi chung với nhau theo từng nhóm nhỏ vài ba người vào làng mạc khất thực trong buổi sáng rồi đến trước giờ ngọ tìm một chổ nghỉ ngơi, thọ thực, kinh hành, thiền định, quán tưởng, tu học… đến chổ tập trung một số khá đông Tỳ-kheo vào một nơi sống chung với nhautrong suốt ba tháng mùa mưa, đáng lẽ đã đòi hỏi Tăng đoàn của Đức Phật phải có sự chuẩn bị và đặt ra cho Tăng đoàn rất nhiều việc phảigiải quyết. Tuy nhiên, Tăng đoàn của Đức Phật đã có những cơ duyênthuận lợi. Vào năm thứ ba kể từ khi Đức Phậtchứng đạo, Tăng đoàn đã quy tụ cả ngàn Tỳ-kheo . Bấy giờ Đức Phật và chúng đệ tửđi
lên
phía Bắc đến xứ Ma-kiệt-đà trú ở một ngọn đồi ngoài thành Vương Xá .
Sự xuất hiện của một đoàn Ty-kheo đông đảo sinh hoạtquy củ đã khiến
Tăng đoàn giành được sự ngưỡng mộ của dân chúng . Tiếng tăm của Tăng đoàn đã vang đến tai vị vương chủ xứ Ma-kiệt-đà là vua Tần-bà-sa-la . Vị
vua này đã từng gặp Đức Phật khi Ngài còn tu khổ hạnh . Biết người tu khổ hạnh đó chính là thái tử Tất-đạt-đa dòng Thích-ca ở thành Ca-tỳ-la-vệ . Nhà vua thỉnh Đức PHật cùng Tăng đoàn vào thành nhận sự cúng dường và được nghe Đức Phậtthuyết pháp . Hoàn toàn kính phục và mến mộ trí tuệuy đức của Phật , nhà vua Tần-bà-sa-la xin quy y và dâng cúng khu rừng trúc làm trú xứ cho Tăng đoàn . Nhà vua cho xây tịnh xácung cấp đầy đủ tiện nghi để Đức Phật và chúng Tỳ-kheo có nơi an trú , nơi đó gọi là tịnh xáTrúc Lâm .Khoảng tháng 4 , tháng 5 âm lịch năm ấy ( lịch Ấn Độ gọi là tháng Vesakha) . Đức Phật và chúng Tỳ-kheo đã
thực hiệnmùa an cư đầu tiên của Tăng đoàn tại đó .

Sau mùa an cư này , Đức Phật cùng chúng đệ tửvượt sông Hằng trở lại thành Ca-tỳ-la-vệ . Bấy giờ vua Tịnh Phạnphụ thân của Đức Phật cùng toàn thểhoàng gia đều xin quy y với Phật làm đệ tửtại gia ; ngoài ra một số lớn các vị hoàng tử đã xin gia nhậpgiáo đoàn . Khi rời Ca-tỳ-la-vệ với ý dịnh trở lạian cư tại thành Vương Xá thì Tăng đoàn của Đức Phật được một vị trưởng giả là Cấp-đô-độc mời thỉnh về thành Xá-vệ thuộc xứ Câu-tac-la để an cư tại tịnh xáKỳ viên được xây dựng trên ngôi vườn của thái tử Kỳ Đà mà ông đã mua được với cái giá “ tấc đất , tấc vàng ”.

Lịch
sử
ghi nhận sau mỗi mùa an cư đều có các vị Tỳ-kheo chứng đắcthánh quả
. Qua các mùa an cư đó , quy tắc về việc tổ chức an cư đã được ấn định thật tỉ mỉ . Do Tăng đoàn đã phát triển đến hàng ngàn người , Đức Phậtcho phép các Tỳ-kheo tụ tập thành từng nhóm với quy mô thích hợp . Tự xây dựng lều làm nơi cư ngụ trong mùa mưa . Ở một khu đất rộng rãi , các
lều làm bằng vật liệu nhẹ có thể được dựng thành từng dãy và có thể dựng thành gác cao hai hay ba tầng , có phòng rộng làm chỗ hội họp . Mỗi
trú xứ có một phạm vi được ấn định bởi các đường ranh gọi là cương giới
. trong phạm vi đó các Tỳ-kheo sinh hoạt tập thể suốt ba tháng theo các
quy định nghiêm ngặt . Một tập được công nhận là Tăng- già phải hội đủ bốn vị Tỳ-kheo , trong đó phải có vị đã từng dự an cư trong các mùa mưa trước làm thượng thủ . Tăng-già không hạn định số lượng tối đa . Khi Đức
Phật
đã chấp nhận phát triển Ni giới , các quy định về an cư cho Tỳ-kheo Ni cũng được quy định thật chặt chẽ . Với những quy định về an cư , từng bước Tăng đoàn của Đức Phậttrở thành một giáo đoànđời sống định cư , thực sự thể hiện tinh thầnnhập thế thông qua việc giáo hóa hàng bạch y trong thời giantu tập miên mật suốt ba tháng tại một nơi cố định .

Trải qua hơn 2.500 năm truyền bá và phát triển truyền thốngan cư mùa
mưa của Tăng đoànPhật giáo vẫn được duy trì . Tuổi đạo của một vị tu sĩ được tính theo số mùa an cư mà vị ấy đã tham dự . Trong mùa an cư , chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm , trau giồi giới
đức
, tăng trưởng Giới Tịnh Tuệ , xứng đáng làm ruộng phước cho hàng Phật tửtại gia , mà chính những người Phật tửtại gia cũng có điều kiệnthực hiệnvai trò “ cận sự”. Trong lúc chuẩn bị mùa an cư , Phật tửcúng dường các phẩm vật cần thiết giúp chư Tăng Ni tu tập suốt ba tháng .
Trong quá trình an cư của chư Tăng Ni , Phật tửthường xuyênlui tớitham học , giúp đở việc tổ chức sinh hoạt của chư Tăng Ni , nhờ đó tạo được công đứcthiết thực trong hành trìnhtu học . Nhiệt tâm của hàng Phật tửtại gia góp thêm một động lực khiến chư Tăng Ni tinh cần trau giồi giới đức . Sự tinh cần của chư Tăng Ni củng cốtín tâm của hàng Phật tửtại gia . Khi hiểu rõý nghĩa của truyền thốngan cư , một mùa an cư được tổ chức và thực hiện chu đáo thực sự sẽ mang lại lợi lạc cho mọi người con Phật , dù xuất gia hay tại gia .