(Đạo PhậtKhất Sĩ)
Ban Biên
Tập: Đây là tài liệu đọc trong buổi lễ tưởng niệm Tổ sư tại miền Bắc VN.
Việc đầu tiên của đức Phật sau khi giác
ngộ là thành lậpTăng đoàn gồm những đệ tửxuất gia theo Ngài, những hiền nhân
nay đây mai đó, những người từ bỏ tất cả để học Phật pháp và hoằng dương giáo
lýgiải thoát. Họ sống bằng cách đikhất thực từ nhà này đến nhà khác, và sở
hữu của họ không có gì ngoài ba chiếc Y và một cái bình Bát.
Danh từ khất sĩ có từ đó. Khất Sĩ có
nghĩa là khất thực và khất pháp, tức là xin vật thực của người đời để nuôi thân
và xin Pháp của Phật để tu hành nuôi tâm. Từ ban đầu, họ không phải là những
nhà tu khổ hạnhtự hành xác để sám hối, và không xem lối sốngđơn giản tự nó là
cứu cánh mà chỉ là phương tiện để giải thoát những phiền toái hàng ngày, hầu có
thể tập trung toàn lực vào công việc quan trọng duy nhất là đạt giác ngộ cho
mình và giúp ích cho người.
Khất thực có nghĩa là xin ăn. Đó là cách
nuôi thân một cách chân chính do Phật dạy cho những đệ tửxuất gia. Đó là thực
hànhchính mạngthanh tịnh. Tưởng cũng nên nói thêm ở đây, là tu sĩ của một số
tôn giáo khác ở xã hộiẤn Độ thời đức Phật còn tại thế, thường dùng những
phương tiện không chính đáng để mưu sinh, bởi lẽ những công việc ấy nhẹ nhàng,
dễ làm, không khó nhọc như các nghề coi bói toán, xem tinh tú, bùa chú, xem
ngày xấu, giờ tốt, xem phong thổ, địa lý, xây nhà, đào ao, v…v… Đức Phậtnhận
thấy đây là điều không thể chấp nhận và không phải là việc làm của người tu sĩPhật giáo, không phải là hành chánh mệnh thanh tịnh.
Đi khất thực còn gọi là đi bình bát hay
trì bát. Chữ Bát có nghĩa là đồ dùng để chứa đựng các thực phẩm chỉ đủ vừa sức
ăn cho một người. Bình bát là loại bình được làm bằng đá, bằng sành, bằng đất
sét nung thật chín rồi tráng men bên trong cho khỏi rỉ nước, chứ không được làm
bằng vàng bạc hay tất cả những kim khí quý…. Nếu dùng bằng kim khí quý thì
không đúng phẩm hạnh của người xuất gia. Các vị đã phát tâmxuất gia tức là tập
hạnh xả bỏ tất cả, kể cả thân mạngnếu cần và đúng với chánh pháp, nghĩa là xả
phú cầu bần, xả thâncầu đạo. Ở các nước theo Nam Tông Phật giáo, chư Tăng đi
khất thực nên thường dùngbình bát. Các nước theo Bắc Tông Phật giáo thì không
đi khất thực nên chỉ dùng bình bát trong ba tháng an cư kiết hạ, có nơi còn ba
tháng kiết đông nữa; đồng thời, thỉnh thoảng có quý thí chủphát tâmcúng dườngtrai tăng thì cũng dùng bình bát để cúng Phật trước khi thọ trai.
Chuyến đi khất thực bao giờ cũng diễn ra
vào buổi sáng và chấm dứt trước giờ ngọ tức trước lúc mặt trời đứng bóng. Các
Tỳ-kheo đi một mình hay từng nhóm, không đứng trước cửa chợ mà đi theo thứ tự,
từ nhà này sang nhà khác, không phân biệt, mắt nhìn xuống và yên lặng đứng đợi
trước mỗi cửa nhà để xem thức ăn có được đặt vào bình bát không. Các thí chủ
chỉ cúng dường những thức ăn đã được nấu sẵn, không cúng dường các vật liệu
chưa làm thành món ăn, như cúng cơm chứ không cúng gạo, cúng món rau xào chứ
không cúng bó rau chưa nấu chín. Nếu chưa đủ dùng, chư vị tiếp tụcđi theo hàng
dọc đến nhà bên cạnh nhưng không được quá bảy nhà. Chư vị không được phép bỏ
sót nhà nào, hoặc dành ưu tiên cho phố xá ở các thị trấn phồn thịnh, các gia
chủ giàu hay nghèo đều phải được tạo cơ hội đồng đều để gieo trồng phước duyên,
cũng không muốn gây cảm tưởng là chư vị ham thích những khu phố giàu có vì thức
ăn ngon hơn.
Khất thực xong, các vị trở vềtịnh xá để
ăn trước khi mặt trời đứng bóng. Đây là bữa ănduy nhất trong ngày. Thông
thường thức ăn được phân ra làm bốn phần: một phần nhường lại cho các bạn đồng
tu nếu thấy họ không có hay có ít, một phần san sẻ cho người nghèo, một phần
dành cho loại chúng sinh không phải là người nhưng sống chung với người, và
cuối cùng còn lại là phần mình dùng. Khi thọ dụngthức ăn các vị Tỷ kheoxem
như là việc uống thuốc để duy trì sự sống mà tu hành, ngon không ham, dở không
bỏ. Thọ dụng cúng phẩm của người đời vừa khỏi đói khát thì thôi, không được ham
cầu cho nhiều, phá vỡ thiện niệm của họ. Sau bữa ăn, các vị rửa bát, xếp gọn
các y, ngơi nghỉ trong chốc lát, liền lại đến một gốc cây hay căn nhà trống,
hay tịnh thấtngồi thiền định như hành Tứ niệm xứ hay niệm hơi thở vào, hơi thở
ra.
Hằng năm, chư Tăng ni an cư vào ba tháng
mùa mưa. Tất cả trở về sống chung trong các tịnh xá lớn. Trong thời gian này,
chư Tăng không đi khất thực, đã có thiện nam, tín nữ, đến tịnh xá “để bát” và
lo tứ sự cúng dường. Cứ đến ngày lễ Bố-tát vào ngày trăng tròn và ngày đầu
trăng, chúng Tỳ kheo cùng sống trong một vùng phải tập họp lại một chỗ gọi là
giới trường để tụng đọc Giới bổnBa La Đề Mộc Xoa. Chư Ni thì có đại diện đến
xin lãnh giới ở chư Tăng và trở vềtịnh xá riêng của Ni để tụng đọc Giới bổn
Ni. Ngoài ba tháng an cư, chư Tăng được tung ra khắp các phương hướng, đi đến
các trú xứ khác nhau, trong các quốc độ, vừa khất thực để độ nhật, vừa thuyết
phápđộ sinh, và vừa nỗ lựctinh cầntiếp tục hành Thiền để đoạn trừ tham sân
si.
Kính thưa quý vị
Pháp Khất thực do Phật truyền cho các đệ
tửxuất giaphù hợp với nguyên lý Trung đạo, tức là tránh xa hai cực đoan: Thứ
nhất là tránh xa sự sung sướngthái quá qua việc ăn thực phẩm do người đời cúng
dường để vào trong bình bát mà không dùng đũa ngọc, chén ngà, bàn cao, ghế đẹp
với thức ăn mỹ vị; và thứ hai là tránh xa sự khổ hạnhthái quá qua chiếc bát
đựng đồ ăn vừa đủ dùng, không giống như phái tu khổ hạnh lượm trái cây, lượm đồ
ăn dư thừa mà ăn.
Theo Kinh Phật, sự xin ăn của tu sĩ đem
lại lợi ích cho mình và cho chúng sinh:
Đối với vị Tỳ kheokhất thực thì có năm
điều lợi ích:
(1) Tâm trí được rảnh rang, ít phiền
não,
(2) Không bận rộn tâm và thân để kiếm kế sinh nhai,
(3) Đoạn trừ tâm kiêu căngngã mạn,
(4) Đoạn trừ lòng tham, không thể thamăn ngon và ăn nhiều vì ai cho gì ăn nấy,
không thể chọn lựa, thức ăn chỉ đầy bát chớ không nhiều hơn nữa, tránh khỏi sự
thâu trữ vật thực tiền của và
(5) Có nhiều thì giờtu hành.
Ngoài lợi ích cho riêng mình, vị Tỳ kheokhất thực còn mang lại ba điều lợi ích cho chúng sinh như:
(1) Tạo cơ duyên cho người bố thí đoạn trừ lòng tham, tức là tạo phước duyên
cho họ,
(2) Tạo cơ duyêngiáo hoáchúng sinh, và
(3) Nêu gương sống giản dị làm cho người đời bớt tham đắm của cải.
Theo Kinh Phật, trước khi lên đườngkhất
thực vị khất sĩ nguyện rằng: “Nguyện cho các vị Khất gia thảy đều được no đủ và
nguyện cho các thí chủ thảy đều được phước báu vô lượng. Như nay tôi được món
ăn là dùng để điều trị cái thân độc hại này, để tu tậpthiện pháp, lợi ích cho
thí chủ.”
Trong khi đi khất thực, vị khất sĩ giữ
tâm bình đẳng: theo thứ tự nhà của dân chúng mà xin ăn, không chỉ đến xin nơi
nhà giầu, cũng không chỉ xin nơi nhà nghèo. Có lần đức Phật quở Tôn gỉa Ca Diếpbỏ nhà giầu mà xin nhà nghèo, quở Tôn gỉa Tu Bồ Đềbỏ nhà nghèo mà xin nhà
giàu. Vì trước đó Tôn Giả Ca Diếp nghĩ rằng: “Người nghèo thật đáng thương, ít
phước, nếu không gieo trồng phước lành cho họ thì đời sau lại càng khổ hơn, nên
đến đó xin để nhờ đó họ bố thícúng dường mà được phước về sau”. Trái lại, Tôn
giả Tu-Bồ-đề lại cho rằng: “Người giàu, nếu đời nay không gieo trồng phước lành
thì đời sau lại nghèo khổ.” Mỗi vị đều trình bày lý do của mình, Đức Phật mới
quở trách các vị ấy là bậc A-la-hán có tâm phân biệt, không bình đẳng. Khi đi
vị Khất sĩ không ngó qua ngó lại, không được mở miệng nói chuyện, đi hết bảy
nhà nếu không ai cúng dường cũng phải trở về với bát không và không ăn ngày hôm
đó. Khi đi khất thực, vị khất sĩ cũng không được để ý xem mình được cái gì, và
cũng không được thỏa mãn cũng như bất mãn. Nếu một người đàn bà cúng dường đồ
ăn, vị Khất sĩ không được nói, nhìn hay quan sát người ấy đẹp hay xấu. Đồ ăn
cúng dường cho Khất sĩ không phải luôn luôn nhiều hay ngon lành, hay tinh
khiết. Các chuyến đi khất thực đôi lúc cũng có thể gây nên những xáo trộn tình
cảm cho các Tỳ-kheo trẻ vì đa sốthí chủ là đàn bà con gái. Do đó, việc tự điều
phụcthân tâm phải được tăng cường là điều rất cần thiết trong lúc khất thực,
như đức Phật đã nhấn mạnh: “Chỉ khi nào thân tâm được điều phục, thực hànhchánh niệm và phòng hộ các căn thì mới đi vào làng khất thực”.
KínhThưa quý vị,
Ngày nay, tại một số quốc gia theo
truyền thốngPhật giáoNam Tông như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Campuchia,
Lào và một phần của miền Nam Việt Namchư Tăng vẫn tiếp tục theo truyền thốngkhất thực này. Ở Trung Hoa, Triều Tiên và Tây Tạngtruyền thốngkhất thực dường
như đã hoàn toàn biến mất. Dưới Triều nhà Đường ở Trung Hoa, một tông pháiđặc
biệt, Luật Tông, được thành lập với mục đích làm sống lạitruyền thốngkhất
thực xưa, và đem ra thực hành những giới luật nghiêm ngặt của Luật Tạng. Dưới
triều đại nhà Tống, các Thiền Sưthực hànhkhất thực và sự thực hành này còn
tồn tại nơi những Thiền SưNhật Bản. Tuy nhiên ở Nhật Bản, khất thực không phải
là nguồn sinh sống chính mà chỉ là một sự tập luyện kỷ luật cho những vị sơ tu
hay là một cách lạc quyên vào những dịp đặc biệt và cho những mục đíchtừ
thiện. Đối với Phật giáo phương Tây, vì hoàn cảnhxã hội không giống như hoàn
cảnh các quốc gia phương Đông, nên pháp Khất thực khó thực hiện. Đa số các Tăng
ni không đi khất thực nên các nhu cầu ăn uống đều do các Phật tửtại giacúng
dường.
Nói tóm lại, vì nhu cầu tu học, nên vấn
đềăn uốngcần phải được giản dị, thực phẩm phải được xem như là dược thực, vì
thế Tăng đoàn thời Đức Phật phải đi khất thực. Khất thực là chính sách thực
hànhgiáo pháp, là truyền thống của chư Phật. Các thầy Tỳ kheo phải giữ tâm
bình đẳng mà đi khất thực từng nhà, không phân biệt giầu nghèo sang hèn để tạo
cho đủ mọi tầng lớp dân chúng đều có cơ duyênthực hành hạnh bố thí cầu phước,
nhân dịp đó quý thầy nói pháp khuyên dạy mọi ngườitu hành. Khi đi không ngó
qua ngó lại, không được mở miệng nói chuyện, luôn điều phụcthân tâm trong
chánh niệm, đi theo thứ lớp: Nếu hàng Phật tử thỉnh thọ trai thì không cần theo
thứ lớp, cứ đi thẳng đến nhà thí chủ thỉnh mình. Còn khất thực phải theo thứ
lớp. Ai cho gì ăn nấy, không được phân biệt thức ăn tốt xấu, ngon dở, chay mặn,
không được qui định người thí chủ phải cúng dường như thế nào, mà là tùy điều
kiện khả năng và phát tâm của thí chủ. Đó mới gọi là trí không phân biệt. Cũng
vậy khi ăn thì phải trộn các món ăn với nhau để không còn phân biệt món này với
món khác, món ngon món dở và không phân biệtmùi vị. Mục đích để không còn luyến
áimùi vị thơm ngon, mà chỉ cần ăn để nuôi sống xác thân mà tu hànhgiải thoát.
Giáo ĐoànKhất Sĩ.
TRUYỀN THỐNGKHẤT THỰC
Nếu
ai đã một lần đến các nước theo truyền thốngPhật giáo nam truyền, hẳn sẽ nhìn thấy hình ảnh các vị sư với chiếc y màu vàng đang đi khất thực vào buổi sáng sớm. Sẽ có bạn tự hỏi (nhất là những bạn không hiểu về Phật giáo nam truyền) tại sao họ lại đi khất thực và khất thực là gì mà ở
xứ mình hiếm thấy?
Phải chăng đó là hình thức ‘xin ăn’ như những ‘cái bang’ đang tích cựcthi hành khắp nơi ở Việt nam? Nếu để ý kỹ hơn, có thể bạn sẽ nói rằng dường như có cái gì đó khác hơn vì những vị sư nhận phẩm vật trong sự tôn kính của người cúng dường. Nó hoàn toàn khác với hình ảnhtranh đua của những ‘cái bang’ khi được tài vật. Thế thì, điều gì làm nên sự khác biệt ấy và ý nghĩa của khất thực là gì?
Khất thực là một thuật ngữPhật học mà nếu ta dịch nghĩa sẽ dễ bị hiểu lầm như là ‘xin ăn’ bình thường. Khất thực là một sinh hoạt thường nhật của tăng đoàn thời đức Phật. Đó là một cách hành trì, một hạnh nguyện của các vị xuất gia theo Phật giáo nam truyền (nguyên thủy). Khất
thực là phương cách có thể đem lại nhiều lợi lạcthiết thực cho vị khất
sĩ cũng như Phật tửcúng dường; là cách truyền bá và duy trìPhật pháphiệu quả thông qua hình ảnhtăng đoànhành khất. Tuy nhiên, những giá trịlợi lạc ấy chỉ có thể đạt được khi pháp này được hành trì đúng mục đích.
Quay vềquá khứ cách nay hơn 25 thế kỷ, nơi xứ Ấn độlinh thiêng và đầy màu sắc tôn giáo, người ta nhận thấy có một tăng đoànhành khất đo đức Phật Thích Ca Mâu Nilãnh đạo. Hình ảnh đoàn hành khất thật trang nghiêm và thanh tịnh đã gây xúc động không biết bao nhiêu con tim và tạo
nên tình cảm kính quý vô vàn trong lòng xã hội từ vua chúa cho đếnthứ dân. Hình ảnh ấy biểu trưng cho sự giải thoát của những bậc đã giải thoát mà đức Phật là vị khai sáng. Họ đã giải thoát khỏi sự ràng buộc bởi vật chất và tình cảm thế gian và sống một đời sống tâm linhthanh thoát ngay trong cuộc đời lắm sự trói buộc này. Có lẽ, không ai nghĩ rằng đức Phậtkhất thực vì cái ăn bởi vì ai cũng biết rằng Ngài xuất thân từ địa vịthái tử của một nước giàu có. Vậy thì, mục đíchthực hànhhạnh nguyện này, theo lời Phật đáp lạiyêu cầu của vua cha, là theo truyền thống của chư Phật. Là vị Phật, Ngài cũng phải kế thừatruyền thống ấy và cũng để làm tấm gương mô phạm hướng dẫn tăng đoànđệ tử cũng
như giáo hóachúng sanh.
Thoạt nhìn qua hình ảnhtăng đoànkhất thực, nhiều người cho rằng đây
là hành động tiêu cực vì chỉ đi nhận phẩm vật của người khác như cách nhìn của người phương Tây. Tuy nhiên, khi phân tích sâu vào bản chất của
pháp hành trì thì chúng ta sẽ thấy được những giá trị rất có ý nghĩa của nó. Sẽ không phải là hành trì hạnh khất thực nếu như vị hành khất chỉ đi để nhận phẩm vật với tâm mong muốn mà không vì mục đíchtu tập. Chỉ đi để mong nhận phẩm vật thì ý nghĩa của nó không khác mấy so với việc làm của những ‘cái bang’. Với tâm mong cầu thì chắc chắn vị ấy có tâm thích và không thích, những mầm móng của tâm tham và sân. Cho nên, đó không phải là pháp hành trì của vị khất sĩ. Ngược lại, vị khất sĩ đầu
‘đội trời’ chân ‘đạp đất’ là biểu trưng cho sự thực hành hạnh xả bỏ bản
ngã và thể hiện tấm lòng từ bi hướng đến với mọi người. Không phân biệt
sang hèn, phẩm vật ngon dỡ, nhiều ít thì làm gì có tâm tham và sân khởi
lên khi nhận phẩm vật. Sự thanh tịnh của tâm sẽ chế tác nên năng lượngcông đức và phước báo để có thể nuôi lớn tâm vị hành khất và mặt khác hồi hướng cho các Phật tửcúng dường. Có thể nói đây là một nghệ thuật sống, một phương phápthực tập mà đức Phật đã thực hành khi còn tại thế,
và giờ đây truyền thống ấy vẫn còn giữ ở một số nơi. Hình ảnh những vị khất sĩ bước đi những bước khoan thai, thảnh thơi trong chánh niệm, bước
đi theo thứ tự từng nhà một mà không phân biệt giàu nghèo là biểu trưng
của lòng bình đẳng và sự an lạc.
Ở Việt nam, hình ảnhchư tăngkhất thực cũng rất phổ biến trong cộng đồng người theo Phật giáo nam truyền ở các tỉnh tây nam bộ, Sài Gòn và một số tỉnh khác. Tuy nhiên, do có hiện tượng thật giả lẫn lộn nên Giáo hội đã có biện pháp tạm ngưng sinh hoạtkhất thực ở Sài Gòn và một số tỉnh khác. Việc tạm ngưng là để tìm ragiải pháp và quy địnhcụ thể cho việc hành trìhạnh nguyệnthiêng liêng này nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy sự phục hoạttrở lại. (Xem video hình ảnh buổi khất thực của chư TăngTịnh Xá Ngọc Minh, Phan Thiết)
Đã có nhiều vị giảng sưPhật giáo có uy tín, vì nhìn thấy được giá trịlợi lạc của hạnh khất thực, thấy được giá trịthiết thực của nhiệm vụhoằng pháp qua hình ảnhtăng đoànkhất thực, đã mạnh dạn đề nghị Giáo
hội nên cho phépchư tăngkhất thực với những quy địnhcụ thể. Những vị
ấy đã gợi ý là nên cấp thẻ cho những vị phát nguyệnhành trì hạnh khất thực và quy địnhthời giannhất định, cũng như là phải khất thực thành từng đoàn. Như thế, những vị sư giả sẽ dễ bị phát hiện và việc khất thực
không làm ảnh hưởng xấu đến Phật giáo. Thiết nghĩ, những đề xuất trên có tính khả thi và mong rằng Giáo hội sẽ sớm ban hành hướng dẫn cụ thể cho những hành giảtu tập theo truyền thống này. Có lẽ, đây cũng là mong
mỏi chung của những người con Phật mong muốn nhìn thấy hình ảnhtruyền thống có ý nghĩa của Phật giáo được duy trì.
Trong khi chờ đợi, thiết nghĩ, những vị sư bên tăng đoàn nam truyền và những vị phát nguyệnhành trìhạnh nguyện này nên có những đề xuất và
có chương trìnhcụ thể để trình Giáo hội xin phép được tiếp tụchành trì. Như vậy, việc phục hoạt sẽ sớm trở thànhhiện thực hơn là chúng ta cứ trông chờ từ Giáo hội trong khi Giáo hội có rất nhiều việc phảigiải quyết. Điều đó cũng thể hiệný chí của những hành giảPhật giáo không khuất phục trước những khó khăn để vượt qua những thách thức mà Phật giáo đối mặt cũng như góp phần phổ biếnPhật giáo trong nhân gian. Đó là
cách hành xử tích cực hơn nhiều so với sự thất thủ, lùi bước an toàn mỗi khi có những khó khăn hay thử thách xảy đến.
Trên tinh thầnhoằng pháp về văn hóatâm linh, hình ảnhtăng đoànkhất thực hôm nay sẽ tạo nên bức tranhsinh động về một hình ảnhtăng đoàn thời đức Phật, tạo nên một nét văn hóaPhật giáotruyền thống. Song
song với các hình thức tổ chức lễ hộiPhật giáo, nên chăng chúng ta cũng tổ chức ít nhất mỗi năm 2 lần khất thực tập thể như tăng đoàn thời đức Phật vào tuần lễPhật đản và mùa Vu lan. Sẽ thật có ý nghĩa về giá trịvăn hóa nếu Phật giáo Việt namthực hiện được điều này trong thời gian sắp tới.
Hạnh Chơn
Dưới đây là một số hình ảnh trích từ: MỘT BUỔI SỚM MAI TẠI LUANG PRABANG– Tịnh Thuỷ (viết từ Luang Prabang)
Ý NGHĨAKHẤT THỰC CỦA HỆ PHÁI KHẤT SĨ
Lịch sử của Ấn Độ
cổ đại thường ghi lại sự kiệnbốn giai cấp tức là giai cấptăng lữBà la môn, giai cấp vua chúa, giai cấpthương gia địa chủ, và giai cấp hạ tiện Chiên đà la, nhưng hiếm khi nói đến những Sa môn. Đó là những người
tu hạnh không nhà, rày đây mai đó, để thỏa mãn những khao khát về tâm linh, tìm kiếm câu trả lờitối hậu.
Điều này hàm ý rằng
về mặt lịch sử thì trước khi có mặt những vị Sa mônđệ tử của Sa môn Gotama (cũng là một Sa môn) thì những Sa mônngoại giáo hay ngoại đạo khác đã hiện diện và du hành, điểm xuyết cho bộ mặt sinh hoạttín ngưỡng
thời tiền Phật giáo. Họ đến rồi đi, đi rồi đến những làng mạc thôn dã như Pàva, Kushinagara, hay là những phố thị náo nhiệt xa hoa như Vương Xá, Kiều Tất La. Họ có mặt ở dọc theo rặng Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ và vùng
bình nguyên châu thổ sông Hằng. Trên con đường của những kẻ sĩ không nhà cửa, không vợ con, tiền bạc đó thì pháp môn mà họ sử dụng để nuôi thân tứ đạidĩ nhiên là “khất thực”.
Khất thực trong giai đoạn khởi thủy của Phật giáo:
Chính Thái tử Sĩ Đạt Ta khi chưa thành tựuquả vịvô thượng đã gia nhập vào hàng ngũ những kẻ sĩ không nhà này và dĩ nhiên là Ngài cũng đã sử dụngpháp mônkhất thực để giải quyếtvấn đề cơm áo trong giai đoạn tìm phương phápgiải quyết chuyện tử
sinh. Chẳng những trong giai đoạn tìm kiếm chơn lý mà ngay cả sau khi sáng tỏ đạo mầu thì Ngài cũng cho rằng khất thực là một pháp mônphương tiện chính để sinh sống, và khẳng định nó là pháp môntruyền thống của chư Phật ba đời. Sau thời kinh Chuyển Pháp Luân mà nội dung chủ yếu là giáo lýTứ đế và Trung đạo thì tuyên ngôn của Ngài dành cho bản thân và dành cho những Sa mônđệ tử đầu tiên là chủ trương ‘hoằng hóa chúng sinh’, nói nôm na là ‘mở đạo’: “Hãy ra đi, các Tỳ-khưu, đem lại sự tốt đẹp cho nhiều người, đem hạnh phúc lại cho nhiều người. Vì lòng từ bi, hãy đem lại sự tốt đẹp, lợi ích và hạnh phúc cho chư thiên và nhơn loại.
Mỗi người hãy đi một ngả…”
[1]. Mà mở đạo theo kiểu cổ điển là phải du hành, không nhà cửa, không sự nghiệpvợ con; mà du hành thì lại gắn liền vớipháp mônkhất thực. ‘Khất thực’, cũng công việc này mà những người nghèo hèn đói khổ thì gọi
là đi ăn xin hay đi ăn mày, còn những vị Sa mônđệ tử của Sa môn Gotama
thì gọi một cách kính trọng là ‘đi hóa duyên’.
Khất thực được ghi chép trong Kinh tạng:
Kinh Kim Cang là một bộ kinh góp phần quan trọng trong việc xây dựng nên nền tảng của tư tưởng Bắc truyền, gọi theo cách khác là Bắc tông hay Đại thừa. Kinh này có một khởi đề rất truyền thống với việc kể lại trình tự công việc “đời thường”
của bậc thầy của trời và người là “Một hôm Đức Phật ở nước Xá-vệ tại rừng Kỳ-đà trong vườn Cấp Cô Độc cùng với chúng đại Tỳ-kheo là một ngàn hai trăm năm mươi vị. Khi ấy gần đến giờ thọ trai, Đức Thế Tônđắp y mang bát vào đại thànhXá Vệkhất thực. Trong thành ấy, Ngài theo thứ lớp khất thực xong, trở về nơi chúng ở. Thọ trai rồi, Ngài dẹp y bát, rửa chân, trải tòa ngồi” [2].
Hình ảnh của một vị Vô thượng sĩ mà lại hiền hòa và bình dị, đầu trần chân không, mỗi sáng đi trì bình khất thực là một hình ảnhxuất hiện rất thường xuyên trong hệ thốngKinh tạng
Nikàya. Theo định nghĩa truyền thống thì tất cả mọi Tỷ kheo tức là mọi tu sĩPhật giáo có thọ giới đầy đủ đều được định nghĩa là “Khất sĩ”, “bố
ma” và “phá ác”.
Ý nghĩakhất thực của Hệ phái Khất sĩ:
Đối với một người có một chút suy tư sâu xa thì khái niệm ‘xin’ không tách rời khỏi khái niệm ‘cho’, khái niệm ‘học tách rời khỏi khái niệm ‘dạy’. Người Khất sĩ vừa xin vừa cho, vừa học vừa dạy, theo chủ trương: Xin vật chất cho lại tinh thần; học từ
nơi tất cả chúng sanh, dạy lại tất cả chúng sanh, tùy theonhân duyêncảnh ngộ.
Chữ Khất sĩ được phân tích một cách
chính thức bởi vị tổ sưkhai sơn của hệ phái Khất sĩ thành ra hai vế: Khất là xin, Sĩ là học. Bài viết này hướng về ý nghĩa của “khất thực”, nên sẽ không phân tích xa hơn về mối quan hệ “học-dạy” của người Khất sĩ
mà phân tích ý nghĩa việc “xin cho” của người Khất sĩ.
Người Khất sĩ vừa xin vừa cho, vừa học vừa dạy, theo chủ trương: Xin vật chất cho lại tinh thần. Chí ít thì
cũng tạo điều kiện giúp có cơ hội để gieo một duyên lành nào đó, cơ hội
để mài mòn bớt lòng bỏn sẻn, ích kỷ; và cũng tự cho mình một cơ hội để mài mòn ‘cái ta’. ‘Cái ta’ này bình thường thì nó tự động to lớn ra, vì vậy người có ‘cái ta’ ít khi được điều phục, chế ngự thì thường gây nên hầu hết tất cả những bi kịch trong gia đình và trong các tổ chức, xã hội
mà người đó có mặt. Có thể nói rằng ‘cái ta’ ở đâu thì tai nạn, khổ đau
có mặt ở đó nếu ‘cái ta’ đó không được chế ngự; và ‘cái ta này thường được sự giàu có, chức tước và uy quyền nâng cấp.
Hiện nay ở những nước mà Phật giáo Nam truyền được nâng lên vị tríquốc giáo thì truyền thốngkhất thực được hành trìnghiêm chỉnh như là một thời khóa tu tập đầu tiên không thể bỏ qua trong một ngày. Ở Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, từ 05 giờ sáng hầu hết các nhà sư đều xuống đường đi khất thực cho cả bữa điểm tâm
và bữa ngọ trưa. Khoảng 06 giờ 30 là công việc khất thựckết thúc, các nhà sư lại tập trung vào các việc khác như đi học, đi dạy, thuyết giảng,
biên soạn, dịch thuật, lao tác, và các công tác xã hội khác. Ở những nước mà truyền thốngPhật giáoBắc tông là chủ đạo thì vẫn có một bộ phận Tăng Ni còn kính tin, giữ gìn và quý trọngtruyền thống này như ở Nhật Bản, Hàn Quốc mặc dù việc hành trì có phần hạn chế.
Ở Việt Namchúng ta, trong thời kỳ khởi thủy của đạo PhậtKhất sĩ vào những thập niên 40, 50, đạo PhậtKhất
sĩViệt Nam cũng vẫn đã thể hiện và hành trì nghiêm túc pháp mônkhất thực và chính pháp môn này đã giúp các nhà sưKhất sĩ trên bước đường du
hóa trong thời kỳ mở đạo, đẩy mạnh được bánh xe Chánh pháp vào những địa phương mà trước đó Chánh pháp là một điều rất là xa lạ và mơ hồ. Đạo
Phậtkhất Sĩ (tên gọi đầu tiên sử dụng từ thời kỳ lập đạo đến năm 1982)
là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam với tên gọi mới là Hệ phái Khất sĩ còn kết hợp việc khất thực với việc ăn chay. Và việc này đã
tạo nên bản sắc riêng của ‘Hệ Phái Khất Sĩ Việt Nam’.
Đức Tôn sưMinh Đăng Quang, vị Tổ sư
khai sáng ra dòng truyền thừaKhất sĩViệt Nam đã nâng việc khất thực lên làm một nguyên lý chung cho tất cả mọi người: Ai cũng phải xin và cho. Ai cũng phải học và dạy vì không ai tự một mình mình mà có thể sống
được, “lẽ xin là chơn lý của vũ trụ, mà chúng sanh, kẻ thì xin vật chất
để nuôi thân, người thì xin các pháp để nuôi trí, ai ai cũng đều là kẻ xin cả thảy” [3]. Ngài đã phân tích việc ‘xin’ ra làm nhiều phương thức ‘xin’ như dùng thế lực để ‘xin’, dùng mánh lới để ‘xin’, gian lận để ‘xin’, cướp giật để ‘xin’… trong đó cái xin tốt đẹp nhất là cái xin của người Khất sĩchân chính. Người cho và kẻ thọ nhận đều được lợi lạc, phước báu, an vui, với tinh thần tự nguyện.
Trong việc nối truyền Chánh pháp, pháp mônkhất thực được Ngài nâng lên
thành Chánh đạo thứ năm trong Tám đạo của Bát chánh đạo hay còn gọi là Bát Thánh đạo. Đó là Chánh mạng đạo: nuôi mạng một cách chơn chánh. Theo
Ngài, một tu sĩPhật giáo dùng các cách nuôi mạng khác như xem tướng số, xăm quẻ, chiêm tinh, bùa chú, thư tôm, ếm đối (thời đó rất thịnh hành) đều thuộc về tà mạng đạo, đang thực hànhtà mạng, tức là đang thực
hành các phương tiện để mưu sinh không chơn chánh.
Trong công phu hàm dưỡng ngang qua việc tu tập với một chiều kích sâu xatinh tế hơn thì việc ‘khất thực’ được hướng đến sự cẩn trọng và tỉnh giác, và đẩy lùi sự khinh suất, thờ ơ. Việc khất thực trong phương diện này nuôi dưỡng một cách sốngcẩn trọng tối đa sợ làm tổn thương đến môi trường mà mình đang sống, nói cách khác là làm cho bản thân mình hòa nhập thuận thảo với môi trường chung quanh. Dù rằng ‘kẻ cho’ không phải là con người mà là thiên nhiên thì người Khất sĩ cũng phải chắp tay hỏi xin trước khi thọ nhận: ‘uống hỏi xin nước, nằm hỏi xin đất, ăn hỏi xin lá trái, ở hóc hang’ [4]. Điều
này đặc biệt có ý nghĩa trong thời đại ngày nay, thời đại mà xu hướng sản xuất và hưởng thụ vật chấtchi phối rất mạnh khiến nhịp sống càng lúc càng nhanh và phong cách sống dễ sa vào tình trạng hấp tấp, vội vàng
và hời hợt.
Thay lời kết:
Khất thực của Hệ phái Khất sĩ có một nguồn gốc lịch sửlâu đời từ thời tiền Phật giáo, thời kỳ tìm đạo, tu đạo, thành đạo và hóa đạo của Đức BổnSư Thích Ca Mâu Ni Phật ở Ấn Độ
thời cổ đại. Ở Việt Nam vào cuối những năm 40, pháp môn này được Đức Tôn sưMinh Đăng Quang khôi phục và hành trì nghiêm túc trong suốt những
năm tháng mà Ngài còn hiện diện. Ngài xem pháp môn này là cách nuôi mạng theo Chánh phápduy nhất của một vị Tỷ kheothanh tịnh chân chánh nguyện tu theo hạnh đầu đà hay là hạnh giải thoát xả ly.
Khất thực của Hệ phái Khất sĩ được khái quát hóa thành mối quan hệ ‘xin cho’ như đề cập ở trên. Và việc ‘xin cho’ này phát xuất từ nguyên lý chia sẻ chan hòa trong cuộc sống. Vì vậyhình ảnh của người Khất sĩ đi khất thực là một biểu trưng tốt đẹp
của nguyên lý chia sẻ chan hòa về vật chất cũng như tinh thần. Nếu một xã hội hay là một cộng đồng người mà trong đó việc chia sẻ chan hòa được
giáo dục, phổ cập và khích lệ, được xem là một nếp nghĩ nếp sốngvăn hóa, được đông đảo quần chúngchấp nhận và thực hành thì xã hội hay cộng
đồng đó chắc chắn sẽ thuần hòa đạo đức hơn, mối quan hệ giữa con người và con người sẽ đầm ấm an vui hơn.
Trong hiện tìnhxã hội, ngày nay sự
phân hóa giữa giàu và nghèo có khuynh hướng gia tăng, mức sống giữa người giàu và người nghèo ngày càng cách biệt; sự tranh giành chức tước,
địa vị và quyền lợi trở nên gay gắt; lối sống se sua hưởng thụ trở thành một xu hướng rất phổ biến thì hình ảnh của một người Khất sĩ đầu trần chân khôngnghiêm trang từng bước hóa duyênkhất thựcphải chăng là
một đối trọng giúp cho việc trung hòa những xu thế đáng lo ngại đã nêu trên, và gợi ý một nếp sống, nếp nghĩ trung đạo thăng bằng. Rất tiếc là hình ảnh thiêng tịnh đó đang dần dầnđi vàoquá khứ.
Ngay chính những người con Phật xuất gia, nhứt là Tăng Ni tân học Hệ phái Khất sĩ, có vị còn không tự mình thấu hiểu hết ý nghĩa và giá trị của pháp mônkhất thực để hành trì.
Trong khi đó, ngày nay có một số người không biết không hiểu gì về đạo Phật và phương phápchân truyền về
hạnh y bátkhất thực, sống lang thang không nghề nghiệp, lại giả danh, mượn hình thức đi khất thực để mưu cầu lợi dưỡng cá nhân, đi khất thực không đúng pháp, không kể giờ giấc, gây ảnh hưởng, tiếng xấu trong xã hội và Đạo pháp. Do vậy, từ diễn đàn này chúng tôi kính mong Giáo hội, Thành hội Phật giáo và các cơ quanchức năng sớm có những biện phápcụ thể hướng tới hai mục đích:
1. Tạo điều kiện cho những Tăng Ni có tâm nguyệnhành trì hạnh “khất thực” đúng Chánh pháp được thực hiện trong khuôn khổ giới luật và pháp luậtquy định.
2. Cần có một biện pháptích cực, thích nghi nhằm ngăn chặn những người giả dạnglợi dụnghình thứckhất thựcphi pháp.
PHỤ LỤC:
Hai mươi sáu phép đi khất thực của phái Khất sĩ
1. Phép đi khất thực chỉ từ một tới hai người mà thôi trừ khi nào đến xứ lạ, một hai ngày đầu đi chung cho biết đường sá, đi từ người cách khoảng hai thước. 2. Khi đi lấy cơm, hoặc đi trai tăng tại nhà cư sĩ thì được đi chung, đi một hàng một, cách nhau 2 thước tây, ai lớn tuổi đạođi trước, tập sự đi sau. 3. Tại tịnh xá có ban cư sĩhộ pháp, hoặc có nhiều người xin cúng dườngluân phiên giáp 30 ngày trong mỗi tháng, thì Giáo hội nếu đông chia ra: phân nửa Tăng đi khất thực, phân nửa Tăng nhận cúng dường trọn bữa ăn. 4. Tốt hơn là mỗi người hàng ngày đều phải đi bát, ban hộ pháp chỉ hộ thêm sau khi đi về. 5. Khi đi khất thực nếu ai về không kịp ngọ, lỡ quá trưa thì phải độ nơi chỗ vắng, gốc cây, xa đường lộ, phố xá, chợ đông. Phải tránh những chỗ dơ dáy bụi bặm, cấu trược ồn ào, vì thế sẽ làm nhẹ thể pháp Phật. 6. Đi bát không được vô chợ, hoặc đứng phía góc chợ, hoặc chen lấn chỗ đám đông. Nên phải đi vào trong xóm hoặc các đường lộ xa chợ. 7. Mỗi đường có thể đi ba ngày, đi xa không quá ba ngàn thước. 8. Bận đi phải đi luôn, bận về nếu thiếu thì đứng trước cửa từ nhà (ngoài đường, chớ không được vào thềm), mỗi nhà đứng năm ba phút theo thứ tự. 9. Khi bát còn lưng, thì ôm quá tay trái gần trước bụng, lúc đầy rồi phải để vào túi, phủ nắp lại, quảy phía tay mặt không nhận nữa. 10. Không nhận lãnh đồ vật để trong túi, ngoài bát, hoặc trên nắp bát. 11. Không được nhận tiền, gạo, không được nhận đồ ăn mặn, khi người đem đến cúng, mình có thể hỏi thêm chay hay mặn, đó là gương dạy thiện cho người. 12. Không được đi vào nhà ai, khi đi khất thực. Nếu phải đi viếng ai, hoặc có việc của Giáo hội sai, thì đi lại ngay nhà người ta trước, bát mang chớ không ôm, bận về mới ôm ra đi xin mà trở về. 13. Không được đứng lại uống nước, hay đại tiểu khi đi khất thực. 14. Bát nếu ôm trần thì được nhận, bát mang trong túi cấm thâu nhận. 15. Không được ngó mặt thí chủ, hoặc nói chuyện quá năm sáu câu. 16. Ai có hỏi đạo giữa đường thì kiếm gốc cây ngồi nói, hoặc hẹn sau khi độ cơm rồi sẽ nói, hoặc mời người đến ngay chỗ ngụ, hoặc để ngày khác người thỉnh cúng dường tại nhà có Tăng đông, có cư sĩ nhiều sẽ nói. 17. Khi đi khất thực, ai muốn cúng hoặc thí gì tự ý, bao giờ người hỏi sẽ chỉ dạy, bằng không thì thôi, chớ chê khen bắt lỗi ép buộc người ta. 18. Nếu biết cơm có dính lỡ đồ ăn mặn, thì khi về phải cho người khác, chớ không được dùng, bằng khi túng ngặt, phải gụt rửa sạch mới được dùng. 19. Khi đi khất thực phải trang nghiêm hòa huỡn ngó ngay xuống, ngó xa hai thước, chớ ngó liếc hai bên, chớ tìm lóng nghe chuyện người nói, tâm phải niệm Phật. 20. Đừng vừa đi vừa nói chuyện, chỉ chỏ, muốn qua đường quẹo phải đứng lại xoay mình, chớ đừng đi tắt xéo. 21. Mỗi khi có chuyện gì thì phải đứng lại, có ai cúng thì chỉ lại người sau, cho để bát trước. 22. Ngày nào ai đi bát đường nào, phải sắp đặt trước tại chùa, chớ đừng ra đường lộn xộn. 23. Khi đi khất thực, ngoài món ăn ra, không nhận món chi ai gởi hết. Hãy bảo người ta đem lại các chùa kia. Ai nói gởi cúng Phật thì không được nhận, hãy nói: “Tăng chỉ là người tu đi xin ăn mà thôi”. 24. Đồ ăn rồi nếu còn dư phải cho hết, không được để dành. 25. Đồ khất thực trước phải độ trước. Đồ cúng dường sau phải độ sau. 26. Khi đi khất thực không được chống gậy, mang giày, che dù… Bên trong mặc áo chừa cánh tay mặt, đầu trần, chưn không; bên ngoài phải mặc vấn thượng y trùm kín. [1]Nàrada: Đức Phật và Phật Pháp, Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, 1991, tr. 115.[2]Từ, Thích Thanh: Kinh Kim CangGiảng Giải, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1999; tr. 15. [3]Quang, Minh Đăng: Chơn Lý, Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr. 167. [4]Quang, Minh Đăng: Chơn Lý – Luật Khất sĩ, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, 1993, tr. 44.
Mây Lành
(Tịnh Xá Ngọc Minh Phan Thiết Bình Thuận)
ࠀ