

Cung kính đảnh lễ Bậc Toàn Trí Toàn Giác


LỊCH SỬ VÀ THAM KHẢO (FULL) 8.3.2023
TỐT NHẤT LÀ NÊN ĐỌC BẢN PDF


Thể theo tôn ý và sự cho phép của Ân Sư của chúng tôi, Thượng Tọa Thích Tuệ Hải – Sư PhụTrụ Trì Chùa Long Hương, chúng tôi xin được trân trọng viết lại ra đây về toàn bộlịch sử quá trình hình thành và hoàn tất bản dịch Việt ngữ Tinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa do Thượng Tọa Thích Tuệ Hải đã hiệu đính và hoàn thiện trong tinh thần dịch thuật vượt thoát vào mùa an cưkiết hạ năm 2019 tại Việt Nam. Chúng tôi cũng xin được chia sẻ với đại chúng về những chi tiếtliên quan đến một số thuật ngữ trong bản gốc Bắc Phạn ngữ Sanskrit (sẽ được nhắc đến trong bài này dưới tên Phạn ngữ hoặc Phạn văn Sanskrit) và lý do vì sao những chi tiết này đã củng cố cho tri kiến và lý giải đặc thù và vượt thoát về ‘Bát Nhã Hiện Tiền’ của Thượng Tọa Thích Tuệ Hải đối với bản Kinh siêu tuyệt này, thường được biết đến dưới tên Bát Nhã Tâm Kinh hay Tâm Kinh.
CỐT TỦY CỦA TRÍ TUỆ TOÀN HẢO SIÊU VIỆT
HOÀN TOÀN VƯỢT THOÁT
Tỳ Kheo Thích Tuệ Hảihiệu đính và hoàn thiện vào ngày 8/8/2019
dựa trên bản chuyển ngữ Phạn-Việt củaMilam Sudhana
Sau đây chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu trong tinh thầntôn trọng và cởi mở, và đồng thời, chúng ta cũng sẽ dựa trên bản Phạn văn Sanskrit và trên các nghiên cứu có cơ sở. Mục tiêuchính yếu của chúng tôi trong tài liệu này là chia sẻ các thông tin liên quan một cách trung thực, để người đọc có thể tự suy xét để nhận thấy ra rằng bản Phạn văn Sanskrit và các nghiên cứu có liên quan, một cách tự nhiên và không lường trước, đã góp phần củng cố cho lý giải của Thượng Tọa Thích Tuệ Hải về bản KinhTinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa như thế nào. Nói một cách cô đọng nhất thì Thượng TọaTuệ Hải đã muốn chỉ ra cho chúng thấy giáo lý cốt tủy, siêu việt của Bát Nhã Ba La Mật Đa chính là giáo lý siêu tuyệt của ‘Bát Nhã hiện tiền,’ và bản Kinh này chủ yếu là đang mô tảcảnh giới của một người tu chứng, tự do, siêu thoát, đã thoát khỏi sự trói buộc của năm uẩn, thể nhậpTự tánh Khôngvô biên.
I. Lịch sử các khám phá mới và sự hình thành bản Việt dịch thô
Vào mùa an cư năm 2019, Thượng Tọa Thích Tuệ Hải đã từ bi dạy chúng tôi nên dịch bài luận giảng của Thầy về Bát Nhã Tâm Kinh qua Anh ngữ. Đây là các bài giảng mà Thầy chúng tôi đã thuyết vào nhiều năm trước đây (Nhâm Thìn 2012), dựa trên bản dịch Hán-Việt, là bản thường được đăng tải trong các quyển Kinh nhật tụng và thường được các Chùa tại Việt Namấn hành theo truyền thốngĐại Thừa Phật GiáoViệt Nam. Bản Việt dịch ấy không ghi tên dịch giả. Bản thânchúng tôi từ khi còn nhỏ, cũng đã học thuộc lòng phiên bản phổ thông này, khởi đầu bằng câu “Khi Bồ TátQuán Tự Tại hành thâm Bát NhãBa La Mật Đa” cho đến câu cuối là “Vì vậy nói chú Bát-nhã ba-la-mật-đa, liền nói chú rằng: Yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la tăng yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha.”
Tuy đã quen thuộc với bản Việt ngữ phổ thông, nhưng do có nhu cầu phải tra cứu để chuẩn bị chuyển dịch toàn bộ bài chánh văn và bài giảng của Thượng TọaTuệ Hải qua Anh ngữ, chúng tôi đã tìm đọc thêm những bản dịch Anh ngữ khác nhau của Tâm Kinh, và xem thêm một vài bài bằng Pháp ngữ. Do tìm thấy có một số điểm tương đồng và không tương đồng trong các phiên bản ngoại ngữ này, nên chúng tôi đã lập bảng đối chiếu để xem là nên sử dụng phiên bản Anh ngữ nào làm bản gốc trong khi dịch các bài thuyết giảng về bản Bát Nhã Tâm Kinh cũ của Thượng TọaTuệ Hải qua Anh ngữ.
Tâm Kinh có hai dạng: ngắn (theo Hoa truyền) và dài (theo Tạng truyền)
Tóm tắt thì trên thế giới hiện nay có hai ‘dạng’ Tâm Kinh, ngắn và dài. Truyền thốngPhật Giáo Tây Tạngsử dụng dạng dài, bao gồm cả phần mở đầu “Tôi nghe như vầy,” kế tới là phần đức Quán Thế Âm nương nơi thần lực của Phật mà thuyết cho Tôn giả Xá Lợi Phất nghe, rồi đến phần kết thúcbao gồmĐức Phậtxuất định, tán thán những lời tuyên thuyết của đức Quán Thế Âm, rồi loài người cùng các loài, các cõi đều tin tưởng, hoan hỷtiếp nhận và y giáo phụng hành.
Trong khi đó, phiên bản Tâm Kinh dạng ngắn, theo truyền thốngPhật GiáoĐại Thừa Trung Hoa và Việt Nam thì bắt đầu vào ngay câu “Khi Bồ TátQuán Tự Tại hành thâm Bát NhãBa La Mật Đa.” Theo Tanahashi (2014) trong tập sách diễn giải về Tâm Kinh thì văn bản dạng ngắn bằng Phạn văn Sanskrit đến từ ba nguồn khác nhau: (1) phiên bản Horyu-ji lưu lạc từ Trung Hoa qua Nhật Bản, (2) phiên bản Amoghavajra (tức của Ngài Bất Không Kim Cương, hay Bukong, hiệu đính) tìm thấy ở động Đôn Hoàng bởi Stein và nhận diện bởi Fukui, và (3) phiên bản Nepal do Edward Conze giới thiệu và chuyển Anh ngữ. (Tanahashi, trang 69)
Có rất nhiều học giả, dịch giả đã chuyển ngữ phiên bản ngắn này qua Anh ngữ. Ba phiên bản Anh ngữ ngắn của Heart Sutra – Tâm Kinh mà chúng tôisử dụng để đối chiếu vào lúc khởi đầu là của các vị sau đây đã chuyển dịch trực tiếp từ Phạn ngữ Sanskrit qua Anh ngữ: 1/. Edward Conze (1967); 2/. Tỳ Kheo Ānandajoti Bhikkhu dịch, Edward Conze hiệu đính; và 3/. Theosophical University Press (1997). Liệt kê dưới đây là 5 điểm khác biệt chính yếu giữa các bản Phạn-Anh và bản Hán-Việt/Việt, là những gì đã tạo ấn tượng và gây sự tò mò cho bản thânchúng tôi. Nhưng ngoài 5 điểm này ra thì các dị bản Phạn ngữ Sanskrit cũng đều có những sai biệt khác nữa, ví dụ như trong các bản Phạn-Anh ngắn lại có thêm các phần: “không có tri thức”và “không có đoạn tận tri thức” (hoặc “không cả không chứng đắc” trong bản dài) mà trong bản Hán-Việt/Việt không thấy có.
#1. Điểm khác biệt thứ nhất: Các bản dịch Anh ngữ có từ ‘here’ (tức ‘iha: ở đây/bây giờ’) đặt trước tên Tôn giả Xá Lợi Phất (iha, śāriputra) nhưng không thấy có từ này trong các bản Hán-Việt/Việt phổ thông.
Khi bắt đầu lập bảng đối chiếu thì chúng tôi đã nhìn thấy ra một chi tiết rất nhỏ, gần như là quá nhỏ để có thể làm người khác phải phân tâm, nhưng với bản thânchúng tôi thì không hiểu vì lý do gì mà khi ấy đã làm cho chúng tôi bất chợt phải giật mình! Rất kỳ lạ vì nó đã hiện ra như là một đốm sáng lóe ra từ một ngọn hải đăng, làm cho tôi cứ phải nhìn chăm chăm vào nó và nó đã choán hết toàn bộtâm trí của tôi!
Cái chi tiết quá nhỏ trong cả ba bản dịch Anh ngữ nêu trên đơn thuần chỉ là một chữ ‘here’ (nghĩa đen tiếng Anh là: ở đây/tại đây/ngay đây), và cái chữ ‘here’ này đã được đặt nằm ngay trước tên Tôn giả Sariputra (Xá Lị Tử/Xá Lợi Tử/Xá Lợi Phất):
“Here, Sariputra, form is emptiness, emptiness is form.” (Anh ngữ)
“O Sariputra,” he said, “form here is emptiness.” (Anh ngữ/Muller)
“O Sariputra, form is here emptiness.” (Anh ngữ/Suzuki)
Và xin đơn cử thêm một ví dụ nữa trong bản Pháp văn, Le Sūtra du Coeur, do The Buddhiste Centre đăng tải, thì dịch giả cũng đã dùng từ ‘ici’ (nghĩa đen cũng là: ở đây/tại đây/ngay đây) như sau:
“Ici donc, la forme n’est rien d’autre que la vacuité.” (Pháp ngữ)
Trong khi đó thì bản dịch theo âm Hán văn và các bản Hán-Việt lẫn Việt ngữ mà tôi tìm xem vào lúc đó, gồm các bài dịch của quý Ôn Cố Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang, Cố Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Lão Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh (bản cũ), Cố Lão Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, kể cả phiên bản phổ in trong các quyển Kinh nhật tụng thì hoàn toàn không có sự hiện diện của từ nào hàm nghĩa ‘ở đây/ngay đây.’ Trong các phiên bản ấy thì câu văn này theo sát truyền thống Hán văn dựa trên bản dịch của Pháp SưTam TạngHuyền Trang và bắt đầu như sau:
Chúng tôi cũng nhận ra thêm một điểm khác biệt thứ nhì, đó là trong các phiên bản Anh ngữ, thứ tự của hai câu đầu về sắc và Không bị đảo ngược so với bản Hán-Việt và Việt ngữ.
#3. Điểm khác biệt thứ ba: Bản gốc Phạn ngữ và bản dịch Anh ngữ có “thêm” một câu thứ ba về sắc và Không mà bản Hán-Việt/Việt không có.
Bản gốc Phạn ngữ và các bản Phạn-Anh có “thêm” một câu thứ 3 về sắc và Không, nhưng câu này lại không xuất hiện trong các bản Hán-Việt và Việt ngữ. Các câu nêu trên về sắc và Không trong bản Anh ngữ dựa trên bản gốc Phạn ngữ Sanskrit đã được dịch theo những hình thức khác nhau, nhưng tựu chung, nếu dịch qua Việt ngữ một cách đơn giản nhất thì thứ tự và nghĩa đen là như sau:
2. “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác sắc.
#4. Điểm khác biệt thứ tư: Câu ‘độ nhất thiết khổ ách/vượt qua hết khổ ách’ trong bản Hán-Việt/Việt không xuất hiện trong bản Phạn ngữ và các bản dịch Anh ngữ.
#5. Điểm khác biệt thứ năm:Khi mô tả ‘năm uẩn,’ bản Hán-Việt/Việt không sử dụng từ ‘tự thể’ (svabhāva) như trong bản Phạn gốc và các bản dịch Anh ngữ.
Điểm khác biệt thứ năm mà chúng tôinhận thấy là trong bản Hán-Việt và Việt ngữ, câu phổ thông thường thấy là “thường chiếu kiếnngũ uẩngiai Không” hoặc “soi thấy/soi thấu năm uẩn đều Không.” Ở đây không nhắc đến ‘tự thể’ (Phạn: svabhāva) của năm uẩn. Trong khi đó, trong tất cả các bản ngắn Phạn-Anh, và kể cả các bản dài Phạn-Tạng-Anh, thì câu này đã được tách ra làm hai phần rõ rệt, tức là có hai vế riêng biệt chứ không gom chung lại với nhau. Vế đầu (theo nghĩa đen) nói là hành giả “nhìn thấy/thấy biết năm uẩn,” và vế sau nói “thấy biết tự thể của năm uẩn là Không.” (Xin xem chi tiết trong bảng thuật ngữ BTN 2 và BTN 3).
‘Iha’ – ‘Ngay hiện tiền này’ là chìa khóa đích thực của Bát Nhã Tâm Kinh
Tuy nhiên, phải thưa rằng chính điểm đầu tiên, tức là cái đốm sáng khởi đầu quá nhỏ của chữ ‘here’ (ở đây/ngay đây) trong các bản Anh ngữ lại là mấu chốt đưa tôi đến với sự thôi thúc muốn tìm hiểu sâu thêm về những từ ngữ đã được sử dụng trong các bản Phạn văn gốc, và từ đó mà một chân trời hoàn toàn mới đã mở ra.
Và như vậy trong quá trình sơ khởi, sau khi lập xong các bảng đối chiếu, chúng tôi đã thưa với Thầy chúng tôi về một số khám phá và khác biệt trong các bản dịch khác nhau. Tôi đã tạm dịch thô và dịch ngược các bản dịch Anh ngữ qua tiếng Việt, đính kèm các bạn Phạn văn Sanskrit tương ứng, rồi đã gửi cho Thầy toàn bộ các bảng đối chiếu này để xin Thầy ý kiến. Không lâu sau đó, tôi nhận được một điện thư từ Thầy vỏn vẹn như sau: “Con coi sau khi đối chiếu xong thì dịch bản hoàn thiện rồi in ra.”Lời dạy của Thầy đã làm cho tôi bị chấn động! Vì chúng tôi tự nghĩ việc này vượt quá khả năng và giới hạn của mình; mình thật chẳng có nền tảng hay tư cách gì để có thể dịch lại Bát Nhã Tâm Kinh, là một bản Kinh vàng, đã được Chư Vị Tôn Túc, các học giả, dịch giả uy tín đã nhiều lần chuyển dịch qua Việt ngữ trong quá khứ! Nhưng sau đó Thầy lại gửi điện thư khuyến tấn tiếp: “Con làm bằng tâm thành thì mọi thứ sẽ tốt đẹpnhư ý nguyện của mình.”
II. Lịch sử phiên bản lá cọ Horyu-ji (Bắc Phạn – Sanskrit)
Phiên bản Horyu-ji, mà chúng tôi dùng làn nền cho bản Việt dịch thô, đến từ hai tấm lá cọ (lá bối), và là phiên bản cổ nhất tìm được trên thế giới hiện nay, ước chừng đã được thực hiện vào thế kỷ thứ 6 hoặc thế kỷ 7-8. Trên hai tấm lá cọ này thì bài KinhTinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa được viết bằng hệ chữ Siddham (Tất đàm tự) trong ngôn ngữ Sanskrit. Theo Jarayava và Tanahashi thì bài Kinh bắt đầu từ hàng thứ nhất tới hàng thứ 7 của trang đầu tiên, qua đến hết hàng thứ nhất của tấm lá thứ nhì. Phần còn lại trên tấm lá thứ nhì là bài tổng trì Ushnisha Vijaya dharani (Phật ĐảnhTôn Thắng Đà La Ni), từ hàng thứ 2 đến hàng thứ 6, và hàng cuối cùng là bảng chữ cái Sanskrit.
III. Lịch sửhiệu đính và hoàn thiện bản Việt dịch trong tinh thần vượt thoát
Sau khi bản Việt dịch được hoàn tấtviên mãn, thì Thầy chúng tôi đã nảy sinh một ý tưởngtuyệt vời và đã cho phổ nhạc bài Tinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa ra nhiều thể loại âm nhạc khác nhau một cách rất sáng tạo, từ nhạc giao hưởng, thính phòng, cải lương, ngâm thơ, vọng cổ, tân cổ giao duyên… cho đến nhạc cổ truyền dân tộc, như lời Thầy đã thuyết vào cuối mùa hạ 2019 trước khi khóa an cư hoàn mãn (trích sách TTBNBLMĐ, trang 175-176):
Tâm nguyện của Thượng TọaTuệ Hải là bài Tinh TúyBát Nhã sẽ được truyền bá rộng khắp, và các giáo lýsiêu việt trong bản Kinh này, qua lời ca, tiếng nhạc, sẽ đi sâu vào lòng người dân Việt ở khắp mọi tầng lớp, trong mọi hoàn cảnh sống, thực sự phá vỡ được những bế tắc trong tâm thức của mọi người, khai mở được trí tuệ Bát Nhãsâu xa, đưa được nhiều người đến sự chứng ngộviên mãn.
IV. Phân đoạn và tóm lược yếu nghĩa của các giai đoạn thâm nhậpBát Nhã và Hiển HiệnBát Nhã
Để giúp làm thêm sáng tỏ cách thức chuyển ngữ, hiệu đính và hoàn thiện bản Việt dịch Tinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa so với bản gốc Phạn văn Sanskrit, chúng tôi xin ghi lại trong các đề mục phía dưới đây một số các trường hợpnổi bật của các từ ngữ, câu lời trọng yếu, do Thượng Tọa Thích Tuệ Hải chọn lựa. Khi đem ra so với các thuật ngữchính yếu trong bản Phạn văn gốc, chúng ta có thể thấy ra được sự linh động khéo léo trong quá trình hiệu đính và hoàn thiện, cốt để làm sáng tỏ thâm ý của nội dung bản Kinh. Các thuật ngữ Sanskrit và câu lời tương ứng được nhắc đến bên dưới đây thật ra cũng là những gì đã từng gây thắc mắc cho chính bản thânchúng tôi trong giai đoạn khởi đầu.
Chúng ta học xuyên suốt bản Kinh này sẽ thấy toàn bộbản Kinh đều nói đến một người ngay khi thâm nhậpBát Nhã. Trí tuệ đó thấy cái gì đang xảy ra ở đây thì cũng chính là chuyện của người đang thâm nhậpBát Nhã. Chúng ta nên hiểu nguyên bản Kinh này là như vậy. Đây chính là cái chìa khóa, nếu chúng ta mở được cái khóa ở đoạn trên thì xuyên suốt ở các đoạn dưới đều là ‘Bát Nhã hiện tiền.’
Như vậy tuy rằng ai cũng có thể hiểu được Kinh Bát Nhã theo chiều của tâm thức, nhưng nếu rời khỏi cảnh giới ‘ngay khi thâm nhập Bát Nhã’ thì coi như người đó không hiểu Kinh Bát Nhã.” (Trích TTBNBLMĐ, trang 106-107)
“Chúng ta càng học Bát Nhã, càng thấy là người xưa cách đây mấy ngàn năm đã hành văn rất chặt chẽ. […] Nhất là các vị Thánh chỉ cần xuất ngôn là thành một bài văn với mở bài, thân bài và kết luận rất chặt chẽ. Bài KinhBát Nhã có mấy trăm chữ nhưng đầy đủ những yếu tố đó.” (Trích TTBNBLMĐ, trang 133)
Các giai đoạn trọng yếumô tảcảnh giớithâm nhậptrí tuệ Bát Nhã
Đây là mở đầu, là bắt đầu thâm nhậpBát Nhã ‘ngay khi’ Bát Nhãhiện tiền; có nghĩa là khi ấy người đó thông thấu toàn bộnăm uẩn. Vậy thìnăm uẩn chính là trí tuệ Bát Nhã. Trong chánh văn nói rằng ‘ngay khi thâm nhậpBát Nhã Ba La Mật Đa, thông thấu toàn bộnăm uẩn và tỏ tường tự thể của năm uẩn là Không,’ nhưng nên mở ngoặc ra nói rằng Không ở đây chính là Không Tướng (Vô Tướng). Hoặc mở ngoặc ra sau chữ Không để vô thêm chữ Bát Nhã, tức là ngũ uẩntrở thành chính là trí tuệ Bát Nhã, Bát Nhã chính là cái Không Tướng này. (Trích lược TTBNBLMĐ, trang 106-107)
Đoạn này tiếp tụcdiễn tả một người đang thâm nhậpBát Nhã, mô tảcảnh giới của một người giác ngộ ‘ngay hiện tiền này.’ Ở đây Bát Nhã chính là ngũ uẩn, ngũ uẩn chính là Bát Nhã. Ngũ uẩn vốn dĩ cũng là toàn trihiện hữu, vốn dĩ thanh tịnh, vốn dĩ chưa từng sanh diệt. Thực thể của sắc uẩn là Không thì Không ở đây là Không Tướng (Vô Tướng). Sắc uẩn cũng là Không Tướng, không sắc uẩn cũng là Không Tướng. Có hình sắc là Không, mà không có hình sắc cũng là Không. Nghĩa là ngay nơi hiện tiền này là hiện hữu, hiện thực, nhất như chứ không có hai, cho nên sắc chỉ là gượng nói, là tạm nói, chứ sắc không có, vì sắc là hiện tiền, mà không cũng là hiện tiền. Sự hiện hữuhiện tiền này là sự rỗng lặng thanh tịnh, chứ không có sắc và không có không, không có quá khứ, không có vị lai, không có hiện tại, không có không gian và không có thời gian. Đối với sắc là như vậy thì thọ, tưởng, hành, thức cũng là như vậy. (Trích lược TTBNBLMĐ, trang 81-83)
Đoạn 3 – Cảnh giớitiếp tụcthâm nhậpBát Nhã:
Đây cũng là thêm một đoạn tiếp tụcdiễn tả một người đang thâm nhậpBát Nhã, mô tảcảnh giới của một người giác ngộ [ngay hiện tiền này.’ Ý nói nếu đã là Bát Nhã rồi thì tất cả các pháp đều hiển lộtừ Không Tướng (phi tướng, không có tướng sắc và cũng không có tướng không). Các câu “không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp…” cho đến “không có chứng, đắc… v.v.” chỉ là để giải thíchtoàn bộ cho thấy tất cả các pháp đều là Không Tướng chứ không khác. Ngay trong cảnh giớitrí tuệ Bát Nhã này, tất cả các pháp đều hiện tướngBát Nhã, đều hiện từ Không Tướng thì đây là cái thấy của người giác ngộ. Không Tướng ở đây chính là vô ngã, và vô ngã chính là vô pháp. (Trích lược TTBNBLMĐ, trang 107-109)
Đoạn 5 – Cảnh giới thường Hiển HiệnBát Nhã:
Đoạn 6 – Bát Nhã là trí tuệ của đại giác – Hiển Hiệncảnh giớichân thật:
Xin xem toàn bộ bản Việt dịch bản chánh văn Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa do Tỳ Kheo Thích Tuệ Hảihiệu đính và hoàn thiện vào ngày 08/08/2019 ở trang kế bên và nghe thêm các bài thuyết giảng về Tinh TúyBát Nhã của Thượng TọaTuệ Hải tại đường link kênh Youtube Chùa Long Hương sau đây:
IV. Những điểm trọng yếu và cách lý giải một số thuật ngữ quan trọng và
Sau đây chúng tôi xin phép được tiếp tục trình bày về một số thuật ngữ Sanskrit, các khám pháliên quan đến các thuật ngữ này, quá trình tìm hiểusơ khởi và cách thức diễn đạtdiệu lý và thâm nghĩa trong tinh thần dịch thuật vượt thoát của Thượng Tọa Thích Tuệ Hải trong khi hiệu đính và hoàn thiệnbản Kinh này.
Nhưng trước khi đi sâu hơn, chúng tôi xin mạn phép nhắc lại câu chuyện về bản KinhNiết Bàn (Nirvana Sūtra), cùng vị Ni Cô tên Vô Tận Tạng (Wu-chin-tsang) và ‘Cư Sĩ họ Lư của chúng ta,’ như Thượng TọaTuệ Hải thường gọi Lục Tổ Huệ Năng một cách thân thương mỗi khi nhắc đến Ngài. Khi ấy Lục Tổ vừa mới nhận Pháp từ Ngũ Tổ, vừa rời khỏi Huỳnh Mai đi lánh nạn và vẫn chưa phải là một vị tu sĩxuất gia. Khi Ngài đến thôn Tào Hầu (Tsaohou) gần Thiều Châu (Shaochou), nghe thấy Ni CôVô Tận Tạng, là người cô của một vị học giả ở địa phương tên Lưu Chí Lợi (Liu Chih-lueh), tụng KinhNiết Bàn, thì ngài đã thể ngộ diệu lý và giải nói cho vị Ni này nghe.
Khi vị Ni ấy đem Kinh đến đưa cho Ngài xem và hỏi Ngài về ý nghĩa của một Hán tự (một chữ đặc biệt) trong bản Kinh đó, Ngài trả lời rằng: “Tôi không biết đọc. Hãy hỏi tôi về diệu nghĩa của văn Kinh.” Vị Ni ấy hỏi lại Ngài rằng: “Nếu chữ ông còn không biết đọc, thì làm sao ông hiểu được nghĩa Kinh?” Tổ đã đáp rằng: “Diệu lý của Chư Phật chẳng dựa vàovăn tự.” Khi ấy, vị Ni ấy đã lập tức nhìn Ngài bằng một cái nhìn khác, và đã nói với những vị trưởng lão trong thôn rằng: “Đây là một người có Đạo, các vị hãy nên thỉnh cúng dường.”
Đối với đoạn truyện trên thì Thượng Tọa Thích Tuệ Hải, trong một bài giảng về Pháp Bảo Đàn Kinh, cũng đã giảng giải rộng hơn để giúp chúng ta thấy ra được điều sâu mầu trong câu chuyện này. Vì thật ra, điều mà Lục Tổ muốn khai thị không phải chỉ liên quan đếnKinh Niết Bàn hay đến tiểu sử của Tổ nói riêng, mà có liên quan đếntoàn bộ cách đọc Kinh, học Kinh, dịch Kinh, thâm nhậpnghĩa lý Kinh, và nhất là lại càng thiết yếu trong trường hợp được xem như là một bản Việt dịch kỳ đặc của Tinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa. Chúng tôi xin ghi lại tóm tắt lời giảng của Thượng TọaTuệ Hải như sau, trước khi đi sâu hơn nữa vào các thuật ngữ trong bản Phạn văn gốc của Tinh TúyBát Nhã.
Nhờ Kinh điển để nhận rađạo lý nhưng đạo lý lại nằm ngoài văn tự
Những điều được Thượng TọaTuệ Hải lý giải dưới đây cũng có thể được xem như là quan điểm nền tảng của chúng ta khi phải tiếp cận với một bản Việt dịch Tinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa rất lạ thường, khác xa với những gì mà chúng ta đã từng tiếp cận trước đây trong bản Tâm Kinh truyền thống. Và cơ may là với một quan điểm như thế, chúng ta có thể sẽ dễ dàng hơn để rời được cái cũ, khi cần thiết, để đến được với cái mới, khi hữu dụng, nhất là nếu cái mới có thể giúp chúng ta lĩnh hội và thâm nhập ‘diệu lý của Chư Phật’ một cách toàn triệt hơn.
Đây là những lời trích trong bài Pháp Bảo Đàn Kinh (Bài giảng 12) do Đại Đức Thích Tuệ Hảithuyết giảng trong quá khứdựa trên bản Việt dịch của Hòa Thượng Thích Thanh Từ (https://www.youtube.com/watch?v=AhqWbUh6sfw):
[…] “Tổ bảo “chữ thì không biết, nghĩa tức mời hỏi.” Chúng tôi nghĩ là do câu nói này mà người ta mới cho rằng Tổ Huệ Năng của chúng tahoàn toàn không biết chữ. Khi ấy Ni Cô mới nói rằng “chữ còn không biết thì làm sao hiểu được nghĩa Kinh?” Tức là người không biết chữ thì lấy gì để hiểu nghĩa Kinh để giải? Và ở đây, Tổ lại nói rằng “diệu lý của Chư Phật chẳng có quan hệ với văn tự.” Tức là ở chỗ sâu mầu của Tự tánh kia thì chẳng dính dáng gì tới chỗ văn tựchữ nghĩa cả. Cho nên khi chúng ta học Phật Pháp, chúng ta thấy là có những người nhận đạo lý mà thông qua văn tựchữ nghĩa. Như trường hợp của Lục Tổ Huệ Năng lúc còn là một cư sĩ đốn củi, nghe qua câu Kinh “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” ở trong Kinh Kim Cang thì Ngài ngộ. Tức là nhờ chữ nghĩa, nhờ Kinh điển mà Ngài nhận rađạo lý, nhưng chính đạo lý đó lại nằm ngoài văn tựchữ nghĩa. […] Vì từ chỗ chân lý kia, người ta mới bắt đầu nói ra chữ nghĩa. Cho nên ngôn ngữ tải được một phần nào đó của đạo lý chứ ngôn ngữ không phải là đạo lý.Và ở đây cũng vậy, diệu lý, tức là lý vi diệu ở bên trong, chân lý đó lại không nằm trong văn tựchữ nghĩa này. Khi học đạo, đôi khi chúng ta nặng về ngôn từchữ nghĩa, nặng về trường lớp […]. Nhưng trong thời của Đức Phật, tất cả những người tu và đạt đạo trong thời của Đức Phật là những người không có bằng cấp nào hết. Và Lục Tổ Huệ Năng của chúng ta là người đại diện cho điều đó. Điều này nói lên được rằng Phật Pháp thực thụ không thông qua bất kỳ một khuôn sáo nào, mặc dù khuôn sáo đó cũng có thể tải được một phần của đạo lý bằng ngôn ngữchữ nghĩa, bằng những lý luận hay khéo.
Nói chung, hiểu Kinh có rất nhiều dạng. Có những người hiểu ý ở trong lời nói đó.Có những người hiểu lý sâu của những lời nói đó. Cũng có những người nhân những lời nói đó mà nhận rachân lý sâu ở bên trong. Đó là rất nhiều tầng bậc để nhận định rằng khi người đó đọc qua quyển Kinh thì người đó thâm nhập Kinh tới đâu. Cũng có những quyển Kinh người đó đọc được, hiểu được, giảng được nhưng lại không thấy được chân lý thì đây là dạng hiểu nghĩa trên văn tựchữ nghĩa. Cho nên khi đã nhận ra được chân lý rồi, thì dù là chữ nghĩa hay không phải là chữ nghĩa thì người đó cũng vẫn nhận ra. […]Về các bảng thuật ngữ Phạn-Việt
Trong các bảng thuật ngữ (viết tắt: BTN) dưới đây, TTBNBLMĐ là chữ viết tắt của bản Việt dịch Tinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa do Tỳ Kheo Thích Tuệ Hảihiệu đính và hoàn thiện, và cũng là tên tập sách do Tỳ Kheo Thích Tuệ Hải lược giảng. Lý dochúng tôilựa chọn nêu ra một số các trường hợp của các thuật ngữ và cấu trúc dưới đây để làm sáng tỏ là do bởi những ví dụ này bao gồm các câu Việt dịch khác thường, và bởi thế đã làm cho một số vị học Phật quan tâm và thắc mắc. Những trường hợp này cũng đã được ghi lại trong phần “Chú Thích” tóm gọn nằm phía sau tập sách Tinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa. Chúng tôi cũng sẽ trích lược một số lời giảng cô đọng trong sách lược giảng của Thượng Tọa Thích Tuệ Hải, có liên quan đến các thuật ngữ này phía dưới các bảng thuật ngữ, và nếu quý vị muốn tìm hiểusâu xa thêm thì xin hoan hỷ đọc toàn bộ tập sách Tinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa do Thượng TọaTuệ Hải lược giảng
Về các từ ghép trong Phạn văn Sanskrit
Cũng xin lưu ý là trong trường hợpPhạn ngữ, chúng ta thấy có nhiều từ ghép được nối ghép lại bằng những từ vựng khác nhau. Một từ ghép cũng có thể mang một hoặc hai ý nghĩa khác nhau. Nếu chúng ta không rõ chủ ý của người sáng tác lúc khởi đầu thì việc diễn dịch một từ ghép lại tùy thuộc vào mỗi dịch giả với những cái nhìn chủ quan và cá biệt. Vì những luật hợp biến (sandhi) trong tiếng Phạn là bắt buộc trong câu, nên trong nhiều trường hợp, người đọc, người nghe có thể gặp vấn đề trong việc nhận biết từ gốc. Chúng tôiđặc biệtquan tâm đến ‘śūnyatālakṣaṇā’ (BTN 6) và ‘amalāvimalā’ (BTN 7) trong Tâm Kinh. Cách tách hai từ này thành từ tố đã ảnh hưởng đến việc diễn giảinghĩa lý Kinh (xin xem các giải thíchchi tiết trong các bảng thuật ngữ ở những trang sau).
BTN 1. gambhῑraṁ prajñāpāramitāyām caryāṁ caramāṇo và cảnh giới của bậc tu chứng ngay khi thâm nhậptrí tuệ Bát NhãHiện Tiền
pra: trước
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Ngay khi thâm nhậpBát Nhã Ba La Mật Đa
* Tóm tắt: ‘Ngay khi’ là ngay phút chốcnhận biết, hay ra, ngộ ra Bát Nhã để tan biến thànhBát Nhã. Và thay vì ‘hành thâm’ hay ‘hành sâu’ thì từ ‘thâm nhập’ được sử dụng để chỉ một cảnh giới hòa nhập trọn vẹntrở thànhBát Nhã, chứ không phải chỉ là ‘thực hành’ Bát Nhã theo cách có người hành và có pháp để hành. Từ ‘thâm nhập’ chỉ là gượng nói để mô tả sự hiển lộBát Nhã.
Trích sách lược giảng TTBNBLMĐ: “‘Ngay khi thâm nhập’ Bát Nhã Ba La Mật Đa là ngay nơi hiện tiền này chính là Bát Nhã Ba La Mật Đa, cho nên dùng từ ‘thâm nhập’ cũng thành dư. Vì sao? Vì ngay nơi hiện tiền này không có sự vướng đọng, ngay nơi hiện tiền này là tỏ tường thông lưu, ngay nơi hiện tiền này là tự nhiênan nhiên, ngay nơi hiện tiền là nhất như, không có cái gì sai khác được. Ngay nơi hiện tiền là như nhiên, bình đẳngtuyệt đối. Cho nên chính hiện tiền này được xem như là thâm nhậpBát Nhã. Từ ‘thâm nhập’ [là gượng nói nhưng chủ yếu] là muốn giới thiệu là vị đó đã Hiển HiệnBát Nhã rồi. […] “Hiển Hiện” tức là hiển lộ. Hiện tiền chính là hiển lộBát Nhã. Hiện tiền là sự hiện hữu của Bát Nhã, chứ không có ‘sống trong,’ không có ‘sống bằng,’ không phải ở ngoài nhập vào, cũng không có chuyện an trú mà nó là an nhiên, nó là một sự hiển lộ như nhiên, nó vốn dĩ là như vậy.
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Thông thấu toàn bộnăm uẩn
* Tóm tắt: Trước đây thường dịch là ‘chiếu kiến’ hoặc ‘soi thấy’ nhưng từ ‘thông thấu’ được sử dụng để chỉ một sự thông lưu thấu suốt, một sự thấy biết thông suốt có khả năng xuyên thủng, không gì ngăn trở được.
BTN 3. ca svabhāvaśūnyām paśyati sma và cảnh giới Không của năm uẩn
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Và tỏ tường tự thể của năm uẩn là Không
BTN 4. iha śāriputra [rūpaṁ śūnyatā śūnyataiva rūpaṁ] và sự quan trọng của từ gốc ‘iha’ để bước vào chân trời ‘Bát Nhã Hiện Tiền’
(trạng từ chỉ định thời điểm và địa điểm): ở đây, tại đây, ngay đây, bây giờ, ngay bây giờ, trong trường hợp này, trong thời điểm này, hiện tại, trong thế giới này Xá Lợi Phất, Xá Lợi Tử
Nghĩa đen:
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Này Xá Lợi Phất, ngay hiện tiền này [sắc chính là Không, Không chính là sắc]
* Tóm tắt: Cụm từ ‘ngay hiện tiền này’ để thay thế cho ‘ở đây và bây giờ’ (‘ở đây/bây giờ’ là ý nghĩaphổ thông của từ gốc‘iha’ trong bản Sanskrit). ‘Ngay hiện tiền này’ là để chỉ khoảnh khắc hiện tiềnhiện hữu không trước không sau khi thể nhập, tan biến thànhtrí tuệ Bát Nhã.
Trích sách lược giảng TTBNBLMĐ: […] “Những gì mình từng trải qua là ký ức, là quá khứ; những gì chưa tới là tương lai, còn ‘bây giờ’ không có nghĩa là ‘hiện tại.’ Nếu bây giờ chúng ta còn thấy đây là hiện tại thì chúng ta cũng là người đang nhận định. Nếu chúng ta có nhận định thì khoảnh khắc hiện tiền này là hiện tại, nhưng ‘hiện tiền này’ không phải là ‘hiện tại.’ Thực tại không phải là hiện tại, mà là cái đang hiện tiền, đang hiển lộ, đang hiển bày tất cả những gì đang hiện hữu này. Sự thật đang hiện hữu này rỗng lặng, thanh tịnh; nó đang hiển lộ tất cả mọi thứ hiện tiền ở đây thì đó chính là tinh túy của Bát Nhã.
Cho nên Bát Nhã không nói chuyện chút nữa, không nói chuyện hồi nãy và cũng không nói chuyện ở đây. Còn ‘ở đây’ là chúng ta còn khẳng định. Câu nói ‘ngay tại đây và bây giờ’ là chúng ta còn khẳng định. Khẳng định ‘ở đây’ là một sự chấp thủ mà mình lại không biết là mình chấp thủ. Có ‘ở đây’ thì sẽ có ‘ở kia’, có ‘bây giờ’ thì sẽ có ‘chút nữa’ và có ‘hồi nãy.’ Cho nên hiện tiền này không phải là ‘ở đây’ mà là đang ở đây! Hiện tiền này chính là hiện hữu phủ khắp. Mặc dù chúng ta chưa cảm nhận được nhưng chính chúng ta đang ở trong cái khắp. Chúng ta đang hiện hữu bằng cái khắp, chứ chúng ta không hiện hữu bằng cái riêng.” ( trang 18)
“Chúng tôi không muốn nói cụm từ ‘ngay tại đây’ và cố tránh từ này. Vì ‘ngay tại đây và bây giờ là từ ngữ vướng kẹt trong ngôn ngữ của Thiền học. Cho nên chúng tôi muốn thoát ra các từ này và chúng tôi nói ‘ở hiện tiền’ chứ không phải ‘ngay tại đây.’ ‘Hiện tiền’ không có nghĩa ‘ngay tại đây’. Ngay tại đây là một sự khẳng định, nhưng hiện tiền thì không phải là khẳng định mà cũng không phải là phủ định. ‘Ngay tại đây và bây giờ’ là một sự khẳng định, nhưng đạo lý không phải là khẳng định, không phải là phủ định. Nó ở ngoài sự khẳng định và phủ định, vì nó là hiện tiền, là hiện hữu, là thực thể, là như nhiên, là tự nhiên, không do ai tác động hết, không có ai ở ngoài để nhận định nó […] thì đó mới chính là chân lý. Cho nên mới nói là ‘ngay nơi hiện tiền’ này. Cái hiện thực này không ai có thể khẳng định được và không ai có thể phủ định được, vì nó là sự hiện hữuhiện thực rồi.”
“Trước đây có bao nhiêu cuốn sách dùng cụm từ ‘ngay tại đây và bây giờ,’ như vậy là đủ biết họ chết trong đó không thoát ra được. Thành ra cách sử dụngngôn ngữ của người Việt rất sâu […].Chữ ‘hiện tiền’ này chính là chân lý. Ai có thể phá vỡ được chân lý này? Ai có thể từ chối hiện tiền này được? Hiện tiền thì không phải khẳng định, không phải phủ định, cho nên không có thời gian, không có không gian. Hiện thực, hiện hữu, hiện tiền này thì không ai có thể thay đổi được. Bởi vì chúng ta đang ở trong khoảnh khắc hiện tiền, hay nói khác hơn, chúng ta là hiện tiền chứ chúng ta không khác được.”(trang 90)
Sự quan trọng của từ gốc ‘iha’ và thuật ngữ ‘Ngay hiện tiền này’
Tiếp theo đây, chúng tôi xin mạn phép mở ngoặc viết thêm một chút nữa về chữ ‘iha’ như sau. Như đã trình bày ở phần đầu, chữ ‘iha’ tuy rất nhỏ bé nhưng đã đóng một vai tròtrọng yếu trong bản KinhTinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa mà gần như chẳng mấy ai biết đến. Tôi thật sự yêu nó vô cùng! Nhiều lần tôi nghĩ đến nó và đã tự hỏi vì sao chúng ta đã phải mất hơn một ngàn mấy trăm năm để tìm ra lại chữ này trong bài Tâm Kinh? Vì sao cái chữ ấy đã đi lạc hơn một ngàn mấy trăm năm mà chẳng ai nhìn thấy nó ngay trong bài Tâm Kinh? Có phải chăng, do nó quá nhỏ bé, ở trong một vị trí quá khiêm tốn nên nó đã bị lạc mất trong rừng chữ nghĩa Phật Pháp?
Có nghĩa là trong bản dịch phổ biến và kinh điển của Ngài Huyền Trang theo Hoa truyền mà Phật GiáoĐại Thừa Trung Hoa và Đại ThừaViệt Namsử dụng thì chữ ‘iha’ (Hán: ci) đã không xuất hiện vào thế kỷ thứ 7 khi Ngài Huyền Trang còn tại thế, nhưng vì một lý do nào đó, Ngài Bất Không vào thế kỷ thứ 8, đã nhìn thấy ra từ trong bản Phạn văn Sanskrit và đã thêm vào trong khi hiệu đính bản dịch của Ngài Huyền Trang. Văn bản gốc này hiện đang được lưu giữ tại Viện Bảo Tàng Anh quốc (British Museum – Stein #5648)
2. Từ gốc ‘iha’ là từ quan trọng nhất trong bản Tâm Kinh theo Red Pine
‘Ngay hiện tiền này’ chuyển tải trọn vẹn thâm nghĩa của từ gốc ‘iha’
Vậy chúng ta có thể mạnh dạn kết luận ở đây rằng Bát Nhã Tâm Kinh, theo cách gọi xưa nay, đang mô tảcảnh giớitu chứng của một người thể nhậptrí tuệ ‘Bát Nhã hiện tiền,’ chứ Tâm Kinh không chỉ thuần túy là một luận lý với các mệnh đề phủ định, phủ nhận tự tánhđộc lập của sự vật, cho rằng mọi sự đều không có tự tánh. Đúng thật là vạn pháp đều không có tự tánhđộc lập, do đó có tánh Khôngduyên khởi. Nhưng đặc biệt là bản Kinh này còn là một bản Kinh dạy về Chân NhưTự Tánh, về Thật Tướng của vạn pháp, khẳng định về sự viên mãn tròn đầy của Chân NhưTự Tánh, và mô tả chuyện gì đang xảy ra cho một hành giả ngay khi thể nhậpThật Tướng, Không Tướng, thể nhậpChân NhưBản Thể thanh tịnh!
BTN 5. yad rūpāṁ sā śunyatā yā śūnyatā tad và cảnh giới giác ngộ khi cả tướng sắc lẫn tướng không đều là Không Tướng nên ‘sắc chính là Không, Không chính là sắc’
Nghĩa đen: Cái gì là sắc, cái đó chính là Không, cái gì là Không, cái đó chính là sắc
Câu trên đây không hiện diện trong các bản Hán văn, Hán-Việt và bài Việt phổ thông.
Vì chúng taảo tưởng có tướng sắc và tướng không, chứ thực chất thì sắc chính là Không Tướng và không cũng chính là Không Tướng. Cho nên nói ‘sắc chính là Không’ và ‘không cũng chính là Không.’ Vì ở chỗ Không Tướng thì mình muốn nói cái gì cũng là Không Tướng, chứ không khác được.
Cái thật thì vẫn luôn ‘hiện’ Không Tướng. Khi Không Tướng nhuốm sắc thì sắc là Không Tướng. Khi Không Tướng nhuốm tướng không thì tướng không cũng là Không Tướng. Tạm thời để có khái niệm ‘có tướng’ là sắc và ‘không có tướng’ là tướng không. Tướng sắc và tướng không là hai cái ảo tướnghiện ra trong cảnh giớiKhông Tướng. Cho nên mới nói ‘cái gì là sắc, cái đó chính là Không, cái gì là Không, cái đó chính là sắc.” (trang 87)
[…] “Ngay niệm hiện tiền này, chúng ta không thấy đúng thực thể sắc chính là Không Tướng thì xem nhưchúng tavô minh. Ngay niệm hiện tiền này, chúng ta không thấy đúng thực thể không cũng chính là Không Tướng thì xem nhưchúng tavô minh. Ngay hiện tiền này, chúng ta không thoát khỏi tướng có và tướng không thì xem nhưchúng tavô minh. Nếu như ngay hiện tiền này, chúng ta thấy không có ‘tướng có’ và không có ‘tướng không’ thì đó là cái thấy của Bát Nhã. (trang 88) […] Chính cái thấy nhìn của Bát Nhã là cái thấy vượt ngoài sắc và không, vượt ngoài có và không, vượt ngoài tướng có và tướng không. Chính cái thấy này là cái thấy của Bát Nhã, mà cái thấy của Bát Nhã thì lúc nào cũng là ngay trong khoảnh khắc này, ngay nơi hiện tiền này. Ở khoảnh khắc hiện tiền, hiện hữu, hiện thực này thì thực thể luôn hiển bày. Bát Nhã luôn là hiện hữuhiện tiền, Bát Nhã không nói chuyện chút nữa, không nói chuyện đã qua. Bát Nhã là thực tại, là hiện tiền. Cái hiện tiền của Bát Nhã là cái hiện tiền không có sắc, không có không. Sắc cũng là Không, Không cũng là sắc, chứ không có khác. Nói ‘cũng là’ hay ‘chính là’ thì đó cũng là một cách nói, chứ thực sự là sắc không có, không cũng không có.” (trang 91)BTN 6. [iha śāriputra] sarvadharmāḥ śūnyatālakṣaṇā và vạn pháphiển lộtừ Không Tướng
Nghĩa đen theo cách ghép từ #1: Tất cả các pháp [vốn là] ‘Không + không đặc tính’ (‘không đặc tính’ – ālakṣaṇā) theo Phạn văn thì phải là tĩnh từ miêu tả ‘Không’ (śūnyatā), chứ không phải để miêu tả ‘tất cả các pháp.’
Nghĩa đen theo cách ghép từ #2: Tất cả các pháp [vốn là] ‘Không + có đặc tính’ (’có-đặc-tính’ (lakṣaṇā) – nếu theo Phạn văn thì ở đây là tĩnh từ miêu tả ‘Không’ (śūnyatā), chứ không phải là tĩnh từ miêu tả ‘tất cả các pháp.’ Do đó không thể mang nghĩa là ‘tất cả các pháp đều mang đặc tính Không’ hay ‘tất cả các pháp đều là tánh Không,’ như thường được dịch xưa nay để mô tả các pháp. Nếu dịch theo nghĩa đen của cách tách từ #2 là không hợp lý, vì đã là ‘Không’ thì chẳng thể ‘có-đặc-tính,’ nên mặc nhiên phải dịch theo nghĩa đen của cách tách từ #1. Xin xem thêm ghi chú dưới đây.
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Tất cả các pháp đều hiển lộtừ Không Tướn
* Tóm tắt: Theo ngữ pháp Phạn, từ śūnyatālakṣaṇā là một từ ghép và có chữ ā ở cuối chữ śūnyatā (Không). Từ này là một từ theo nữ tính nên từ liên kết sau đó có thể có hai nghĩa, hoặc là śūnyatā + lakṣaṇā (Không + tướng/đặc tính) hoặc là śūnyatā + alakṣaṇā (Không + không đặc tính) tùy theo nội dung và cách diễn giải. Nếu để y cụm từ ghép śūnyatālakṣaṇā như trong bản lá cọ thì dựa trên ngữ pháp Phạn sẽ có hai cách hiểu: một là “tướng Không” như cách hiểu và dịch trong một số bản dịch trong quá khứ; hoặc hai là “vắng bặt mọi tướng/vắng bặt mọi đặc tính,” tức đồng nghĩa với ‘Không Tướng’ như trong bản Việt dịch TTBNBLMĐ. ‘Không Tướng’ ở đây là Thật Tướng của các pháp, là hiện tiềnhiện hữuchân thực.
Cách tách từ ghép śūnyatālakṣaṇā – Không Tướng (Vô Tướng)
Nếu hiểu đơn giản nhất, theo cách tách từ ghép śūnyatālakṣaṇā hợp lý nhất trong Phạn ngữ (theo cách #1- xin xem bảng thuật ngữ ở trên), thì điều này lại hoàn toànphù hợp với cách lý giải của Thượng Thọa Tuệ Hải. Đây thuần túy là cảnh “vạn pháp hiển hiện từ Không Tướng,” tức là mô tảcảnh giớiChân Không diệu hữu, chứ ở đây đang không nói đến chuyện “tánh Không,” “tướng Không,” hay “tướng có, tướng không” của các pháp. Ở đây theo Phạn ngữ thì ālakṣaṇā – ‘không có đặc tính’ là một tĩnh từ mô tả Không (tức là Không Tướng – Vô Tướng), chứ không phải là một tĩnh từ để mô tả các pháp.
Tới đây chúng ta có thể nói một chút về pháp và ngã. Các pháp đều hiển hiệntừ Không Tướng, vậy thìKhông Tướng chính là gì? Không Tướng chính là vô ngã, vô ngã có nghĩa là vô pháp, cho nên tất cả các pháp đều là Không Tướng. Vậy thì tuy pháp hiện nhưng pháp này chính là “Pháp bổn pháp vô pháp.” Cái gốc của pháp từ xưa tới giờ chưa từng là pháp. Do các pháp hiện từ chỗ Không Tướng, cho nên nó không phải là pháp mà nó là “hiện tướng của Không Tướng.”
Như đã nói, tất cả những cái hiện này đều là hiện tướng của Không Tướng. Ở đây chúng ta có thể mở ngoặc gọi nó là phi tướng, có nghĩa là nó không phải tướng, nó cũng không phải pháp. Chính thật tất cả mọi thứ đều không phải là pháp. Nhưng nếu nói đến định nghĩa của pháp thì pháp là cái gì? Pháp là cái gì đó mà nó gìn giữ, bảo vệ cái riêng của bản thân nó. Ví dụ, như bây giờ chúng ta giơ một ngón tay lên thì đây là một pháp. Đây là pháp của cái hiện tướng của một ngón tay. Ở đây có nghĩa là nó duy trì, gìn giữ cái riêng biệt của nó. Nhưng hiện tướng riêng biệt của nó cũng chính là ảo tướng. Ảo tướng là do cái thấy sai lầm về cái tưởng của mình. Tất cả các tướng này đều là do cái tưởng của mình mà sanh ra.
Nếu chúng ta nói như vậy thì khó có ai có thể chấp nhận được. Nếu có một lần nào đó mà chúng ta rớt vào chỗ không có tưởng thì tất cả các tướng này đều liền không có. Tướng thân, tướng tâm của mình cũng mất luôn. Một lầnchúng ta rớt vào đó là tất cả những cái này đều sẽ là “hiện tướng Không.” Chúng ta sẽ không nhìn ra được các tướng nữa nếu chúng ta vượt được qua khỏi cái tưởng. Khi chính bản thân mình không nhận được tướng nữa, như trong Kinh Lăng Nghiêm có nói: “Một người đã vượt được tưởng ấm rồi thì thiên ma ba tuần còn không tìm thấy dấu tích”. Chư Thiên muốn cúng dường cũng sẽ không tìm ra.
Nếu Bát Nhãhiển lộ thì ngay hiện tiền này, tất cả mọi cái thấy của mình đều là thấy hình sắc và tất cả mọi hình sắc đều hiển lộ từ cái đang thấy của mình. Mà cái đang thấy của mình chính là Thật Tướng đang rõ thông. Thật Tướng này chính là Không Tướng. Nếu không có Thật Tướng này thì không thể lộ các hình tướng này đâu. (trang 108-110)
BTN 7. anutpannā aniruddhā amalāvimalā nonā na paripūrṇāh và pháp giới toàn chân khôngsanh không diệt, thông lưu, thanh khiết, không nhơ, không nhiễm, viên mãn tròn đầy
Nghĩa đen theo cách ghép từ #1(amalā + avimalā): không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thiếu, không đủ — Phiên bản Horyu-ji là không thiếu, không đủ, trong khi các dị bản Phạn khác là không tăng, không giảm.
Nghĩa đen theo cách ghép từ #2 (amalā + vimalā): không sanh, không diệt, không dơ, không nhiễm, không thiếu, không đủ
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: không sanh, không diệt, không nhơ, không nhiễm, viên mãn tròn đầy
* Tóm tắt: Bản Việt dịch TTBNBLMĐ chuyển ngữ câu này theo cách #2 là amalā (trong sạch, không nhơ) + vimalā (trong sạch, không ô nhiễm). Thêm vào đó thay vì dịch là ‘không thiếu, không đủ’ thì Tỳ Kheo Thích Tuệ Hải đã chọn dịch thoát ý ở đây thành ra là ‘viên mãn tròn đầy.’ Hiện tại này là viên mãn tròn đầy, không dư, không thiếu, không nhiễm, không nhơ, không sanh, không diệt vì Bát Nhã là viên mãn. Thêm vào đó, nếu xem kỹ các nghĩa bổ sung của aniruddhā và nghĩa bổ sung của amalā thì chúng ta cũng có thể hiểu câu này theo một nghĩa lý rất thâm diệu, đại ý rằng đây là cảnh giới “không sanh, không diệt, thông lưu không gì ngăn trở, thanh tịnhchói sáng, vô nhiễm, viên mãn tròn đầy.”
Cách tách từ ghép amalāvimalā – phản nghĩa hoặc bổ sung
Trong quá trình tìm hiểu các thuật ngữ Sanskrit trong bản Kinh, chúng tôitình cờtìm thấy bản dịch Anh ngữ Tâm Kinh dài theo truyền thốngTây Tạng và Nepal của Eng Jin Ooi, như đã thưa trong Phần I về các khám phá mới. Nhưng thay vì dịch câu này theo nghĩa là ‘bất cấu, bất tịnh’ hoặc ‘không nhơ, không sạch’ theo nhưtruyền thống lâu nay, trình bày một cặp từ phản nghĩa và phủ định, thì bản dịch của Eng Jin Ooi lại nói ngược lại điều này, vì ông đã dịch là ‘not blemished, not stained’ (amalā + vimalā), đại ý là không nhơ nhuốc, không cấu uế + không tỳ vết, không nhiễm ô. Như vậy là cặp từ này không còn là phản nghĩa nữa mà là bổ sung cho nhau!
Điều này thật sự đã làm cho tôi sửng sốt, bởi vì trước đó, tôi đã từng nghe đi nghe lại một người nữ ca sĩẤn Độ hát bài Tâm Kinh này bằng Phạn ngữ và tôi nghe rõ cô ấy đã hát câu này là amalā + vimalā (không nhơ, không nhiễm) thay vì amalā + avimalā (không nhơ, không sạch). Câu hát này của cô đã gây ấn tượng cho tôi và làm cho tôi thắc mắc nên tôi đã làm quen với Eng Jin Ooi, và đã hỏi ông vì sao ông chọn lựa cách dịch ngược với truyền thống như vậy.
Sau đó Eng Jin Ooi đã giải thích cho tôi về các từ ghép trong Sanskrit, vào ông giải thích thêm rằng do hai từ này có chữ ā ở cuối chữ thứ nhất (amalā), nên người dịch được toàn quyền chuyển dịch theo một trong hai nghĩa khác nhau tùy vào quy tắctương ứng. Cuối cùng, ông kết luận rằng nếu ta không nắm vững nguyên ý của tác giả thì đôi khi sẽ dịch lệch nghĩa của một từ ghép, và điều này cũng thường xảy ra trong Phạn ngữ trong khi lý giải ý Kinh.
Các nghĩa bổ sung và pháp giớiviên mãn toàn chân
Chúng ta đang bị bó buộc trong ảo tướng không ra được, cho nên mình tưởng tượng là mình ăn như vậy, ngủ như vậy, làm như vậy là mình mới thanh tịnh, còn mình ăn khác, ngủ khác thì mình không thanh tịnh. Đó chỉ là do mình tưởng thôi. Tịnh còn không có, huống gì là nhiễm. Cho nên ở đây gọi là “không nhơ, không nhiễm.” Ở hiện tiền này, nhơ không có kịp, nhơ không vói tới cái hiện tiện này. Cảnh giớihiện tiền này là ‘Bát Nhã toàn tri’ thì nhơ sao được mà nhơ, nhiễm sao được mà nhiễm?
Hiện tiền này là cảnh giớithanh tịnh vô trùng tuyệt đối thì nhơ ở đâu ra? Hiện tiền luôn là tối tôn, tối thượng, tối thắng, là cảnh giớituyệt đối của chư Phật. (trang 120)
Ở phần cuối của câu này, nếu dịch y theonghĩa đen trong chánh văn thì sẽ dịch là ‘không thiếu, không đủ.’ Nhưng chúng tôidịch thoát ý ở đây là ‘viên mãn tròn đầy.’ Hiện tại này là viên mãn tròn đầy, không dư, không thiếu, không nhiễm, không nhơ, không sanh, không diệt vì Bát Nhã là viên mãn. Nếu thực sự một phen tâm chúng tacảm thấy tròn đầy viên mãn là chúng ta đang nhập trong Bát Nhã, đang ở chỗ hiện tiền, đang giác ngộPhật đạo.
Giác ngộPhật đạo là viên mãn tròn đầy, không hề thấy thiếu bất kỳ thứ gì. Dù là một hạt cát thì chúng ta cũng thấy nó đầy khắp pháp giới này. Dù là sát na thì nó cũng tròn đầy viên mãn khắp pháp giớihư không này. Chứ không phải hạt cát và sát na là nhỏ, hư không là lớn. Nếu thấy như thế là chúng ta không có cái thấy nhìn viên mãn tròn đầy. Từ ‘viên mãn tròn đầy’ nghĩa là không có khiếm khuyết ở đâu; dù là nó hư, nó bể thì nó cũng viên mãn tròn đầy. Ví dụ cái dĩa bể phân nửa, chúng ta nhìn thấy nó khuyết thì đó là nhìn sai trên ảo tướng, chứ nó cũng đang viên mãn tròn đầy.
Viên mãn thì nơi nơi chốn chốn đều là viên mãn. Dù là hư khôngvũ trụ bao trùm rộng khắp này đang viên mãn, cho đếnhạt cát cũng chứa cả hư không, đó mới là viên mãn, đó là sự thật! Nếu chúng ta nhìn hư không này còn thấy khác với hạt cát là chúng ta còn nhìn méo mó chưa viên mãn, trí tuệ của chúng ta chưa tròn đầy. Phút chốcchúng ta ở “ngay hiện tiền này” là cái nhìn của viên mãn tròn đầy. Không phải là mình tưởng tượng đâu, mà sự thật là tất cả các pháp đều như nhau, dù là một sát na rất nhỏ nhiệm cũng viên mãn tròn đầy.
Cho nên đang ở hiện tiền, đang nhập trong Bát Nhã là tiếng nói của Bát Nhã. Đã là tiếng nói Bát Nhã thì không chỗ nào bị khiếm khuyết. Cho nên chỗ nào cũng hiện tiềnBát Nhã, chỗ nào cũng viên mãn tròn đầy, chỗ nào cũng tỏa sáng rực rỡhào quang, chỗ nào cũng phủ trùm pháp giới, chỗ nào cũng là cảnh giới của chư Phật, chỗ nào cũng là cõi giới của chư Phật. Nếu chúng ta nhìn khác thì không phải là viên mãn tròn đầy. (trang 120-121)
BTN 8. tasmāc chāriputra śūnyatāyāṁ và cảnh giới của bậc tu chứng khi ngũ uẩn là Không
Nghĩa đen: Trong quá khứ đã được dịch như sau: thị cố Không trung [vô sắc, vô thọ, tưởng, hành thức] / Cho nên trong tướng Không / Cho nên trong tánh Không / cho nên trong Không
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Cho nên, Xá Lợi Phất, trong Không Tướng ấy [không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức]
Trích sách lược giảng TTBNBLMĐ: “Đây là điệp khúc nhắc lại đoạn trước và để tóm kết đoạn trước. Ở nơi Không Tướng này là hiện tướng của ngũ uẩn, nhưng nơi Không Tướng này cũng không có ngũ uẩn. Ở trong Không Tướng này không có ‘tướng có’ cũng không có ‘tướng không’ nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức là hoàn toàn không có. Chúng ta có thể hiểu được bằng tâm thức là ở chỗ Không Tướng, đã không có tướng sắc, không có tướng không thì không có ngũ uẩn. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là hoàn toàn không có trong cảnh giớiKhông Tướng ngay nơi hiện tiền này.
Vì vậy câu ‘trong Không Tướng’ là thay thế cho ‘ngay hiện tiền.’. Ngay hiện tiền chính là Không Tướng. Không Tướng chính là hiện tiền. Hiện tiền chính là ngay khi thâm nhậpBát Nhã. Ngay khi thâm nhậpBát Nhã chính là hiện tiền. Ngay nơi hiện tiền chính là đang hiện hữu và cái đang hiện hữu chính là Không Tướng. Ngay nơi Không Tướng này chính là Bát Nhã. Như vậy nơi Bát Nhã không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Ngay nơi Không Tướng không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Ngay nơi hiện tiền cũng không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, tức là không có ngũ uẩn.” (trang 122-123)
BTN 9. prajñāpāramitām āśritya viharaty a-cittāvaraṇaḥ và sự Hiển Hiện Như Nhiên của bậc tu chứng khi trí tuệ Bát NhãHiện Tiềnhiển lộ
Nghĩa đen: Nương theo, trú nơi Bát Nhã Ba La Mật Đatịch tĩnh, tâm không bị ngăn che bởi niệm tưởng
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Y NhưBát Nhã Ba La Mật Đa, Hiển Hiện Như Nhiên, tâm không ngăn ngại
Trích sách lược giảng TTBNBLMĐ: “Bây giờ chính Bậc giác hữu tình đó không còn là ‘ngay khi thâm nhập’ nữa, mà là tới ‘Y Như Bát Nhã Ba La Mật Đa’ rồi. Ví dụ như mình từ bên ngoài vào, mình thâm nhập vào nội chúng này thì giống như mình còn là một tự thể riêng để đi vàoBát Nhã. Bây giờ mình không còn là người ở ngoài nhập vào, không phải là người mới bước vô mà đã thành ‘Y Như Bát Nhã’ rồi, tan biến thànhBát Nhã, chứ không còn là nhập, không còn là trực nhận, không còn là trực ngộ, không còn là sống bằng, không còn là hiểu nữa. Không phải là những từ chữ như vậy nữa.
‘Y Như’ (chứ không phải y theo hay nương theo) là một từ ngữ, tuy giống như đã được chọn lọc để xài một cách rất bình thường nhưng thực chất không phải như vậy. Phải nói rằng đây là tất cả những kinh nghiệm sống của cả một đờitu tập để chúng tôi có thể sử dụng cụm từ này trong câu này: ‘Bậc giác hữu tìnhY NhưBát Nhã Ba La Mật Đa.’ Không còn gì là khác Bát Nhã, không còn là nhập hay không nhập nữa. ‘Y Như,’ nếu đem ra so sánh thì không phải là hai, không phải là khác, mà là Bát Nhã. Thay vì nói Bậc giác hữu tình là Bát Nhã nhưng chúng ta dùng từ ‘Y Như’ để người ta có thể mường tượng Bậc giác hữu tình không còn là cái gì khác với Bát Nhã nữa. Bậc giác hữu tình đó hiện tại chính là Bát Nhã, là cảnh giới Bát Nhã, là hiện hữuBát Nhã. (trang 134)
Bậc giác hữu tình lúc đó ‘Y Như’ Bát Nhã. Con mắt họ là Bát Nhã, là trí tuệ tỏa sáng, chứ không phải cái thấy nhìn, cái hiểu biết nữa. Dùng từ ‘thấy’ hay ‘chiếu’ là những từ ngữ của trần gian, không đủ sứcdiễn tảBát Nhãhiển hiện trong lúc này. Bậc giác hữu tình ‘Y Như Bát Nhã. Chính Bậc giác hữu tình là Bát Nhã, Bát Nhã là Bậc giác hữu tình.
Do vị ấy đã là Bát Nhã rồi nên chúng ta dùng từ ‘Hiển Hiện.’ Có nghĩa là vị này lúc nào Bát Nhã cũng hiển lộhiện tiền chưa từng bị khuất mất, không gì có thể che chắn, xuyên suốt thời gian và không gian. Lúc nào Bát Nhã cũng hiển lộ, hiện tiền. Hiện tiền chính là sự hiển lộ, hiển lộ chính là sự hiện tiền, không có thời gian. Cho nên lúc nào trí Bát Nhã cũng Hiển Hiện, cũng hiện tiền, cũng hiển lộ. Không phải mình hiểu, mình ngộ, mình nhập mà Bát Nhã đã hiển lộ rồi. Khi Bát Nhãhiển lộ thì nó là hiện tiền, là hiện hữu, là hiện thực. Cái gì đang hiển lộ, đang hiện thực, đang hiện tiền thì đó chính là Bát Nhã. Bát Nhã chính là hiển lộ, hiện thực,hiện tiền không có gì khác. (trang 139)
Ở đây nếu dịch ‘an trú’ là sai. Có chỗ để mình trú và còn ‘mình’ để ‘mình’ trú là không phải. Dịch thoát ý là ‘Hiển Hiện Như Nhiên’ thì nghĩa là không có công phu, không có chú tâm, không có chú ý, không có dụng công, vì chỗ này không có dụng công. Bát Nhã là cái gì đó an ổn, thanh tịnh, tự nhiên, như nhiên. Người ở chỗ này rồi thì không còn công phulấy bỏ, đúng sai, hay dở, không còn làm bất cứ điều gì hết. Họ là người an lạc, thanh tịnh, an ổn, tự nhiên, như nhiên. Bát Nhã là sự hiển lộtự nhiên, như nhiên, nếu mình làm cái gì là không lộBát Nhã. Bất kỳ dụng công nào cũng sai với Bát Nhã. Cho nên lúc Bát Nhãhiển lộ rồi là người đó thành Như Nhiên. Người nào Như Nhiên thì người đó rất tự tại, lưu thông không còn ngăn ngại nữa. (trang 140-141)
BTN 10. prajñāpāramitām āśritya và cảnh giới thường Hiển Hiện Như Nhiên của Chư Phật trong ba thời
Nghĩa đen: Nương theo, trú nơi Bát Nhã Ba La Mật Đa
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: thường Hiển HiệnBát Nhã Ba La Mật Đa
* Tóm tắt: Chữ ‘thường’ được thêm vào, hàm ý Chư Phật trong ba thời thời thời khắc khắc lúc nào cũng đang Hiển HiệnBát Nhã Ba La Mật Đa. Bát Nhã không lúc nào không Hiển Hiện, quá khứ cũng Hiển Hiện, hiện tại cũng Hiển Hiện và tương lai cũng Hiển Hiện. Không có lúc nào không phải là Bát Nhã (TKTTH – Xem thêm các lý giải trong sách TTBNBLMĐ, trang 143-144)
Trích sách lược giảng TTBNBLMĐ: “Chư Phật quá khứ thường Hiển HiệnBát Nhã Ba La Mật Đa mà đạt đượcđạo quảVô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chư Phật hiện tại cũng thường Hiển HiệnBát Nhã Ba La Mật Đa, tức là đời sống của các Ngài là Bát Nhã. Lúc nào cũng hiển lộBát Nhã; đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh đều là Bát Nhã. Khi một người đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh đều là Bát Nhã thì người đó thành Phật. Thành ra ở đây muốn kết đoạn trước ‘ngay khi thâm nhập Bát Nhã’ cho tới khi thành Phật thì người đó luôn Hiển HiệnBát Nhã một cách trọn vẹn.” (trang 144)
“Khi nào Bát Nhã Ba La Mật Đa không hiện thì chỗ đó không phải là Phật. Nếu tất cả đều là sự Hiển Hiện của Bát Nhã Ba La Mật Đa thì tất cả đều là Phật. Phút giây nào trong cuộc sống chúng taHiển HiệnBát Nhã Ba La Mật Đa, tức là chúng taHiển Hiện trong cõi Phật, ở trong cõi giác. Còn phút giây hiện hữu này mà chúng ta không Hiển HiệnBát Nhã Ba La Mật Đa thì mình là người mê.”
“Chư Phật trong ba thời, thường Hiển HiệnBát Nhã Ba La Mật Đa”. Hỏi chư Phật là gì? Chúng ta có thể định nghĩa chư Phật là thường Hiển HiệnBát Nhã Ba La Mật Đa. Bát Nhã Ba La Mật Đa không lúc nào không Hiển Hiện, nên gọi là thường Hiển Hiện. Không lúc nào trí tuệ không tỏa sáng, không lúc nào không an tịnh, cho nên gọi là thường tại định. Thường tại định là định của chư Phật, là Phật định. Phật định là thường tại định, thường định, thường hiện hữu.” (trang 146)
BTN 11. prajñāpāramitā mahā-mantro mahā-vidyā mantraḥ anuttara-mantraḥ asamasama-mantraḥ và Bát Nhã là trí tuệ của đại giác chứ không phải Bát Nhã là một thần chú
prajñāpāramitā mahā-mantro //
Nghĩa đen: Bát Nhã Ba La Mật Đa là câu chú lớn, là câu chú của đại trí, là câu chú vô thượng, là câu chú vô song
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Bát Nhã Ba La Mật Đa là trí tuệ lớn, là trí tuệ của đại giác, là trí tuệvô thượng, là trí tuệvô song
* Tóm tắt: Trong các câu tương đương được tìm thấy trong bản Phạn của bộ Kinh Đại Bát Nhã tức ‘Hai Mươi Lăm Ngàn Câu Bát Nhã’ thì từ vidyā (trí, trí giác) đã được sử dụng thay vì từ mantraḥ (chú). Trong các bản gốc Phạn văn được nhắc đến ở trên, cũng như trong hệ Bát Nhã nói chung thì Bát Nhã Ba La Mật Đa luôn được nhắc đến như là trí tuệthực tiễn và tuyệt đỉnh, chứ không hề được nhắc đến như là một loại thần chú.” Cũng thế, trong bản Việt dịch TTBNBLMĐ thì từ ‘trí tuệ’ (trí) được sử dụng vì ở đây đang muốn nhắc rằng trí tuệ Bát Nhã là trí tuệ tối thượng vốn có của tất cả chúng sanh, đồng đẳng với mười phươngba đời chư Phật. Ở đây là sự Hiển Hiệncảnh giớichân thật của Bát Nhã, là trí tuệsiêu việt vượt ngoài tam giới.
“Nói tới Bát Nhã là phải nói tới trí tuệ, và nói tới trí tuệ là nói tới Bát Nhã, vì vậy nên biết Bát Nhã chính là trí tuệ lớn. Khi chúng ta ở trong cảnh giới Bát Nhã thì trí tuệchúng tatrùm khắppháp giớimười phương, và tất cả mọi cảnh giới đều hiện ra trong trí tuệ này.Trong khoảnh khắc chúng ta tan biến thànhBát Nhã, hòa nhập trong cảnh giới Bát Nhã hoặc hiển hiện trong cảnh giới Bát Nhã thì lúc đó trí tuệhiện tiềnviên mãn. Trí tuệ đó thông thấu toàn bộpháp giới này một lượt; tất cả những gì có trong pháp giới này một lượt hiện ra.” (Xem thêm các lý giải trong sách TTBNBLMĐ, trang 148)
Thay thế từ ‘chú’ bằng từ ‘trí’ vì Bát Nhã Ba La Mật Đa là trí tuệ của đại giác
“Vì vậy, nên biết: Bát Nhã Ba La Mật Đa là trí tuệ lớn, là trí tuệ của đại giác, là trí tuệvô thượng, là trí tuệvô song.”
Phản ứng đầu tiên khi chúng tôi nghe đến chuyện phải thay thế từ ‘chú’ bằng từ ‘trí’ là trong lòng bỗng phát sinh một sự do dự to lớn. Chúng tôi tra tìm thêm trong nhiều bản dịch của các ngôn ngữ khác thì thấy tiếng nước nào cũng giữ nguyên từ ‘chú’ (mantro, mantraḥ). Bản thânchúng tôi từ khi còn nhỏ, mỗi khi tụng đến đoạn này thì lâu lâu trong lòng cũng vẫn dấy lên một sự ngầm ngầm thắc mắc, vì không hiểu sao trong bản Tâm Kinh này lại có sự xuất hiện của cái từ ‘chú’ ở đây. Cảm nhận mơ hồ của chúng tôi khi còn nhỏ là một cái gì nằm ẩn sâu trong tiềm thức, mình lờ mờ thắc mắc là hình như điều này không có liên quan gì đến trí tuệ Bát Nhãthậm thâm, nhưng qua nhiều năm tháng thì cái thắc mắc ngầm ngầm này đã mờ nhạt đi.
Nhưng nay do bởichúng tôi nghĩ đến việc phải đối mặt với những người đọc nước ngoài và những phê phán của họ trong tương lai, nên tôi rất ngần ngại khi nghĩ đến chuyện phải thay đổi ở đây. Do đó, chúng tôi có thưa lại với Thượng TọaTuệ Hải và quý Cô trong Ban Biên Tập rằng nếu thực sự cần phải thay đổi thì nhất thiết bắt buộc phải tìm cách khéo léo giải thích về sự thay đổi này, nếu không, trong tương lai, khi bài này được dịch qua Anh ngữ và các ngôn ngữ khác, thì sẽ gặp nhiều sự đối chất và phê phán của những người đọc nước ngoài. Đây là do chúng tôi muốn cẩn trọng đối với các pháp thế gian, chứ không vì muốn chống trái vớiý nguyện đến từ sự thành tựutâm linh của Thầy chúng tôi, bởi vì với riêng cá nhân tôi, tôi hoàn toàntin tưởng vào trí tuệ thấu biết của Thầy, và tôi cũng cảm nhận rằng sự thay đổi ở đây sẽ truyền tải được tiếng nói chân thật của nội dung gốc liên quan đếntrí tuệ Bát Nhãthậm thâm.
Do bởi trong lần in sách đầu tiên vào năm 2019, chúng tôi chưa truy tìm được gì cả nên đã chỉ chú thích một cách tổng quát dựa trênlời dạy của Thầychúng tôi. Các chú thích về từ ‘mantro, mantraḥ’ (chú) đã được viết tổng quát như sau
“Từ ‘mantro, mantraḥ’ trước đây thường được dịch là chú chú, chú ngữ, chân ngôn, linh chú, mật chú v.v. […] Nghĩa Phạn gốc của từ này còn có nhĩa là một phương tiện để bảo hộ, chuyển hóa và an phục được tâm.[…] Tuy nhiên, trong bản Việt dịch này, từ ‘trí tuệ’ được sử dụng vì ở đây đang muốn nói đến trí tuệ tối thượng vốn có của tất cả chúng sanh, đồng đẳng với mười phươngba đời Chư Phật. Ở đây là sự Hiển Hiệncảnh giớichân thật của Bát Nhã, là trí tuệsiêu việt vượt ngoài tam giới.” (Trích phần “Chú Thích,” sách TTBNBLMĐ, ấn bản 2019)
Kỳ diệu thay, sau nhiều ngày tra tìm với hy vọng là sẽ khám phá được một điều gì đó trong một bản Phạn gốc, hoặc trong một bản dịch cổ xưa, nói lên được sự tương đồng giữa ngôn ngữ cổ với chân lý vừa được khám phá ở đây nhờ vào sự chỉ dạy của Thượng TọaTuệ Hải, thì nhờ ơn Chư Phật từ bigia hộ mà một chi tiết rất lý thú đã xuất hiện. Tuy đây chỉ là một chi tiết nhỏ, được trình bày một cách minh bạch trong một vài bài nghiên cứu của nhà Phật học Jayarava Attwood, nhưng thật ra chi tiết này đã xác quyết cho sự thông suốt của Thượng TọaTuệ Hải về việc phải thay thế chữ ‘chú’ bằng chữ ‘trí’ trong đoạn cuối của bản dịch Tinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa.
Từ ‘trí’ chứ không phải từ ‘chú’ vốn luôn hiện diện trong Kinh Đại Bát Nhã và Tám Ngàn Câu Kệ Bát Nhã
Theo nghiên cứu của Jayarava Attwood thì trong bản Phạn văn còn lưu lại của Tám Ngàn Câu Kệ Bát Nhã trong hệ Bát Nhã và trong bản dịch Phạn-Hán của bộ Đại Bát Nhã mà trong truyền thốngPhạn ngữ Sanskrit gọi là Hai Mươi Lăm Ngàn Câu Bát Nhã do ngài Cưu Ma La Thập dịch vào thế kỷ thứ 4-5 – có một số câu tương tự như trong bài Tinh TúyBát Nhã – thì trong các bản Kinh đó, thuật ngữ được sử dụng trong các đoạn tương đương là ‘vidyā’ (trí, trí giác) chứ không phải là ‘mantro’ hay ‘mantraḥ’ (chú).
Theo Jayarava Attwood và dựa trên những khám phá của Nattier và Yamabe, có các thí dụ điển hình được nêu ra từ trong các bản Phạn ngữ của bộ Đại Bát Nhã, và chúng tôi xin đơn cử một số ví dụ sau đây. Trong bài mang tên “Epithets of the Mantra in the Heart Sutra” (Tính Ngữ của Câu Chú trong Tâm Kinh), Attwood có giải thíchchi tiết và chúng tôi xin tóm lược như sau, và điều này thì hoàn toàn phụ hợp với lý giải của Thượng Tọa Thích Tuệ Hải cho dù khi Thầy bắt đầu khởi sự hiệu đính và giảng dạy về Tinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa, Thầy chưa từng dựa vào bất kỳ sự tra cứu nào liên quan đếnlịch sử hay cú nghĩa:
“Trong các bản gốc Phạn văn được nhắc đến ở trên, cũng như trong hệ Bát Nhã nói chung thì Bát Nhã Ba La Mật Đa luôn được nhắc đến như là trí tuệthực tiễn và tuyệt đỉnh, chứ không hề được nhắc đến như là một loại thần chú”.
Ví dụ như trong bản Phạn văn Sanskrit của Tám Ngàn Câu Kệ Bát Nhã và dựa trên bản dịch Phạn-Anh của Conze (1973), có một đoạn như sau với sáu tính ngữ mô tảTrí tuệ Bát Nhã:
“Này Kauśika (Kiều Thi Ca), Bát Nhã Ba La Mật Đa chính là trí (vidyā) lớn, là trí vô lượng, là trí vô tận, là trí vô thượng, là trí vô song, là vô đẳng đẳng trí, là trí không gì có thể sánh.”
Kế tới, dưới đây là một ví dụ của bản dịch Phạn-Hán của Bộ Đại Bát Nhã tức Hai Mươi Lăm Ngàn Câu Kệ Bát Nhã mà ngài Cưu Ma La Thập dịch, trong đó có một đoạn tương ứng với đoạn kệ trong bản Tâm Kinh hay Tinh TúyBát Nhã:
“[Śakra, Vua Trời Đế Thích, thưa:] ‘Bạch Thế Tôn, Bát Nhã Ba La Mật Đa là trí lớn, là trí vô thượng, là trí vô song. Tại sao lại như thế? Bạch Thế Tôn, bởi vì Bát Nhã Ba La Mật Đa có thể đoạn trừ mọi ác pháp và đưa đến mọi thiện pháp. Khi ấy, Đức Phật liền đáp lời Śakra, Vua Trời Đế Thích, như sau: “Đúng vậy! Đúng vậy! Này Kiều Thi Ca, Bát Nhã Ba La Mật Đa là trí lớn, là trí vô thượng, là trí vô song. Tại sao lại như thế? Này Kiều Thi Ca, bởi vì hết thảy Chư Phật trong quá khứ đã thể dụng trí này để đạt đượcVô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, và hết thảy Chư Phật vị lai, cũng như mười phương Phật, vì có được trí này mà đạt đượcVô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.”
Tinh thần dịch thuật vượt thoát chuyển tải và làm sáng tỏý nghĩathậm thâm của Kinh
Do có được những thông tin như trên, nên sau đó, trong lần tái bản sách Tinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa bắt đầu từ đầu năm 2020 trở đi, chúng tôi đã có xin phép Thầy chúng tôi để được chú thích thêm về gốc tích của từ ‘trí’ (vidyā) đến từ các bản Phạn văn trong hệ Bát Nhã như Tám Ngàn Câu Kệ Bát Nhã và từ bản dịch Phạn-Hán của bộ Đại Bát Nhã tức Hai Mươi Lăm Ngàn Câu Kệ Bát Nhã của ngài Cưu Ma La Thập. Thật lành thay, vì điều này hoàn toànphù hợp với trí tuệ và cái nhìn thấu suốt của Thượng TọaTuệ Hải trong khi thiền định về bản Kinh này.
Nhắc đến ngài Cưu Ma La Thập thì ngài không phải người Trung Hoa; ngài là người xứ Từ Quy (Kucha), thông thạoPhạn ngữ và Hoa ngữ. Ngài đã bị giải đưa từ Từ Quy về kinh đô Trường An và được phong làm quốc sư. Sau đó có cả ngàn vị tăng đã phụ ngài trong việc dịch Kinh. Trong sử nói là cách ngài Cưu Ma La Thậpdịch Kinh thật rất khác những dịch giả khác. Ngài không dịch từng chữ theo nghĩa đen, mà nhất lòng dịch ý thậm thâm của Kinh vì muốn làm sáng tỏ ý Kinh, luôn so sánh với nguyên bản, và mạnh dạn cắt bỏ khi cần.
Chúng ta có thể đọc thêm một chút để hiểu rõ hơn về cách dịch Kinh của ngài Cưu Ma La Thập:
“Công lớn của ngài Cưu Ma La Thập trước hết là thay đổi phương phápphiên dịch. Bản thân Sư nói được tiếng Trung Hoa và các cộng sự viên cũng đều là người giỏi Phật giáo và Phạn ngữ. Cách dịch Kinh của Sư như sau: giảng Kinh hai lần từ tiếng Phạn qua tiếng Trung Hoa, sau đó các tăng sĩ Trung Quốc phải thảo luận và viết lại bằng tiếng Hán. Sau đó Sư lại kiểm soát và so sánh nguyên bản cũng như bản dịch để ra bản chung quyết. Khác với các nhà dịch thuật khác khi tìm cáchdịch từng chữ, Sư là người đã đưa ra được nội dung sâu xa của Kinh sách và, nếu thấy cần thiết, cũng mạnh dạn cắt bỏ những đoạn Kinh không hợp và biến đổivăn từ cho hợp với người Trung Quốc.”
Đây cũng chính là chí hướng và phong cách khai phóng theo tinh thần dịch thuật vượt thoát của Tỳ Kheo Thích Tuệ Hải khi hiệu đính và hoàn thiện bản dịch Tinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa. Rốt ráo như vậy thì nội dung tinh túy của bản gốc Phạn cũng hoàn toànthích ứng với cái thấy nhìn trong thiền định của Thượng TọaTuệ Hải trong khi hiệu đính và hoàn thiện câu Việt dịch để chúng ta có thể đi đến kết luận như sau:
Vì đây là đoạn kết, đang nói về cảnh giớihoàn toàn vượt thoát của hành giả sau khi đã Hiển HiệnBát Nhã Ba La Mật Đa nên ở đây mới kết luận bằng câu này, để khẳng định về sự siêu vượt của trí tuệ Bát Nhãthậm thâm. Đã gọi là thâm nhập, Hiển HiệnBát Nhã thì chẳng còn lý do gì phải tụng ‘chú’ để bảo hộ tâm mình ở đoạn cuối này nữa. Như vậy, nếu đặt từ ‘chú’ vào ngay đây như các bản dịch từ trước đến nay khi tán thánBát Nhã Ba La Mật Đa là bốn loại ‘chú’ siêu tuyệt (‘đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú’) thì hóa ra đó sẽ trở thành ra là một sự áp đặt gượng ép, không thích hợp với ngữ cảnh của đoạn kết này.
Trích sách lược giảng TTBNBLMĐ: “Bát Nhã Ba La Mật Đa là trí tuệ chứ không nói tới chuyện khác nữa. Một người có đầy đủ trí tuệ siêu xuất thì mới có thể thâm nhậpBát Nhã.[…] Nói tới Bát Nhã là phải nói tới trí tuệ, và nói tới trí tuệ là nói tới Bát Nhã, vì vậy nên biết Bát Nhã chính là trí tuệ lớn. Khi chúng ta ở trong cảnh giới Bát Nhã thì trí tuệchúng tatrùm khắppháp giớimười phương, và tất cả mọi cảnh giới đều hiện ra trong trí tuệ này.Trong khoảnh khắc chúng ta tan biến thànhBát Nhã, hòa nhập trong cảnh giới Bát Nhã hoặc hiển hiện trong cảnh giới Bát Nhã thì lúc đó trí tuệhiện tiềnviên mãn. Trí tuệ đó thông thấu toàn bộpháp giới này một lượt; tất cả những gì có trong pháp giới này một lượt hiện ra.” (trang 148)
“Cho nên Bát Nhã chính là trí tuệ, là đại trí tuệ, là đại giác […] vì không có chỗ giác ngộ nào của Chư Phật mười phương mà không hiện trong Bát Nhã này. Khi Bát NhãHiển Hiện rồi, thì tất cả sở chứng sở đắc của Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, Chư Thanh Văn, Chư Vị Thánh Hiền khắp pháp giới này đều hiện một lượt trong Bát Nhã. Vì vậy nên biết Bát Nhã chính là trí tuệ lớn. Ở đây khẳng định là trí tuệ này vô biên không có ngằn mé, là trí tuệvô song, là trí tuệvô thượng không có gì có thể so sánh bằng. Đây chính là trí tuệ tối thượng, là chỗ giác ngộ tận cùng của Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, Chư Vị Thánh Hiền. Đó là vô thượng trí, là vô đẳng đẳng trí, không trí nào có thể hơn trí này, không trí nào có thể rõ thông hơn trí này, không trí nào có thể so sánh với trí này.” (trang 152)
BTN 12. prajñāpāramitāyām ukto mantraḥ tadyathā và cảnh giớichân thật của bậc tu chứng đã đạt đạo khi thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa
Nghĩa đen: Thuyết về Bát Nhã Ba La Mật Đa là câu chú/câu chân ngôn như sau
Bản Việt dịch TTBNBLMĐ: Cho nên, thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chính là Hiển Hiệncảnh giớichân thật
* Tóm tắt: Câu chú/câu chân ngôn (mantraḥ) được thay thế bằng cụm từ Hiển HiệnCảnh Giới Chân Thật’ ngụ ý muốn nói lên cảnh giớihoàn toàn vượt thoát, y như câu kết thúc muốn nói, là sự vượt thoát toàn triệt nay hiện tiền này, là ‘vượt rồi, vượt rồi, vượt thoát rồi, hoàn toàn vượt thoát rồi, giác ngộviên mãn, ta bà ha.’ Người thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa phải không rời cảnh giớichân thật để mà thuyết và thuyết về cảnh giớichân thật chính là thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa.
“Thuyết có nghĩa là đang hiện bày Bát Nhã Ba La Mật Đa, đem Bát Nhã Ba La Mật Đa tặng cho mình. Cho nên nếu mình muốn đón nhận Bát Nhã Ba La Mật Đa thì mình cũng phải ở cảnh giớichân thật để đón nhận Bát Nhã Ba La Mật Đa, chứ mình ở cảnh giới khác thì không đủ sức để đón nhận được.” (TTKTTH – Xem thêm các lý giải trang 168-173)
Trích sách lược giảng TTBNBLMĐ: “Người thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng không rời cảnh giớichân thật để mà thuyết, cho nên người muốn nghe đượcBát Nhã Ba La Mật Đa thì cũng phải ở cảnh giớichân thật mới có thể thấu suốt được Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đây là một câu kết và cũng là một vị thuốc rất quý, ai uống vô cũng được lợi ích.
Cho nên thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chính là Hiển Hiệncảnh giớichân thật, người thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng không rời cảnh giớichân thật và thuyết cảnh giớichân thật chính là thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa. “Thuyết” có nghĩa là đang hiện bày Bát Nhã Ba La Mật Đa, đem Bát Nhã Ba La Mật Đa tặng cho mình. Cho nên nếu mình muốn đón nhận Bát Nhã Ba La Mật Đa thì mình cũng phải ở cảnh giớichân thật để đón nhận Bát Nhã Ba La Mật Đa, chứ mình ở cảnh giới khác thì không đủ sức để đón nhận được. Đó là một câu kết tuyệt vời trên tất cả tuyệt vời từ trước tới giờ. Một câu kết mà có thể đổi cả núi kim cương cũng không đổi. Một câu kết tuyệt trong tất cả cái tuyệt! Chúng tôi không muốn kết luận bằng một câu ‘chú’ nào ở đây, mà phải thay thế bằng một câu kết đúng tầm, xứng tầm với Bát Nhã. Không thể nào có một câu nào hơn!
Vì “thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chính là Hiển Hiệncảnh giớichân thật.” Cảnh giớichân thật chính là Bát Nhã Ba La Mật Đa. Người nói Bát Nhã Ba La Mật Đa phải ở trong cảnh giớichân thật mà nói, rời cảnh giớichân thật thì không đủ tầm để có thể nói Bát Nhã Ba La Mật Đa. Bây giờ thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chính là Hiển Hiệncảnh giớichân thật. Cho nên người nghe Bát Nhã Ba La Mật Đa, muốn tan biến thànhBát Nhã Ba La Mật Đa, muốn Hiển HiệnBát Nhã Ba La Mật Đa thì cũng phải trở vềcảnh giớichân thật và cảnh giớichân thật đó chính là hiện tiền này. Đó là cảnh giới của Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đó là Đức Phật thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa mà không có thuyết, vì Hiển Hiệncảnh giớichân thật là vô ngôn, là cảnh giớituyệt đốigiác ngộ, đó được gọi là thuyết Bát Nhã.
Vậy từ ngàn xưa các vị ấy thuyết Bát Nhã thì bây giờ có thuyết không? Bây giờ vẫn đang thuyết và mãi mãi về sau Bát Nhã vẫn đang được thuyết trong cõi trần này. Bát Nhã là cảnh giớichân thật lúc nào cũng hiện tiền. Từ ngàn xưa là cảnh giớichân thậthiện tiền, bây giờ cũng là cảnh giớichân thậthiện tiền và mãi mãi về sau cũng là cảnh giớichân thậthiện tiền. Nếu tất cả chúng ta đều hiện tiền trong cảnh giớichân thật, có nghĩa là chúng ta hòa nhập trong Bát Nhã Ba La Mật Đa, cũng có nghĩa là mình đang thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa, chứ không phải là Đức Phật thuyết hay Bồ Tát thuyết, không phải là chúng sanh thuyết mà tất cả pháp giới đều thuyết. Tất cả những hiện tiền này đều là hiện tiền của Bát Nhã, cho nên hiện tiền thuyết Bát Nhã là hiện tiềnchân thật. Đây là một câu kết không gì có thể hơn, đủ để có thể kính lễ, cúi đầu trân trọng trước Bát Nhã!
“Thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chính là Hiển Hiệncảnh giới chân thật”, tuy nghe thì rất là thường nhưng khi hiểu hết câu này rồi, thì máu có thể sôi lên đến tan người chứ không còn cái khác nữa! Vì không ở cảnh giớichân thật thì không thể thuyết được Bát Nhã Ba La Mật Đa. Do Bát Nhã Ba La Mật Đa chính là cảnh giớichân thật, cho nên thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng chính là cảnh giớichân thật. Cảnh giớichân thật chính là hiện hữu, hiện hữu ở đây chính là Bát Nhã. Như vậy mỗi hiện hữu đều là hiện hữu của Bát Nhã, mỗi pháp đều thuyết Bát Nhã, mỗi hiện tiền đều là Bát Nhã, đều là đang thuyết Bát Nhã, đều là Hiển Hiệncảnh giớichân thật. Quá tuyệt vời! Một câu kết của Bát Nhã không thể nào hơn.
BTN 13. gate gate pāragate pārasaṁgate bodhi svāhā – thì quá khứ phân cách của động từ ‘gate’ là một kết luận khẳng định về một bậc tu chứng đã đạt đạo chứ không phải là một câu thần chú hay một lời khuyến tấn
Nghĩa đen: Đã vượt qua, đã vượt qua, đã vượt qua đến bờ kia, đã hoàn toànvượt qua đến bờ kia, giác ngộ, vui thay!
Bản dịch TTBNBLMĐ: Vượt rồi, vượt rồi, vượt thoát rồi, hoàn toàn vượt thoát rồi, giác ngộviên mãn, ta bà ha
* Tóm tắt: Do ‘gate’ trong Phạn ngữ Sanskrit là thì quá khứ phân cách, nên câu này, rốt ráo là một câu kết thúc, tóm tắtcảnh giới ‘đã’ hoàn toàn vượt thoát của Đức Quán Tự Tại hay của một hành giảtu chứng ‘đã’ đạt đếngiác ngộviên mãn, chứ không phải là một câu khuyến tấn hành giả ‘hãy vượt qua’ như thường được diễn dịch trong quá khứ. Chữ “rồi” trong câu này cốt ý để nhấn mạnh đây là thì quá khứ, là hành giả đã thành tựu rồi, là việc cần làm đã làm xong. Theo chủ trương của TT. Thích Tuệ Hải, câu này được Việt hóa hoàn toàn như một câu kết luận ở cuối bản Kinh chứ không còn phải trong hình thức một câu ‘thần chú’ nữa.(Xem thêm sách TTBNBLMĐ, trang 175)
Khi chúng tatìm hiểu sâu về câu trên, một câu mà trong quá khứ đều được mọi ngườixem như là câu ‘chú’ của bản KinhTinh TúyBát Nhã, chúng ta sẽ thấy ra một điều rất lý thú. Nương vào sự gia trì của Chư Phật mà sự khám phá mới mẻ trong Phạn ngữ về câu này có thể giúp chúng ta đi đến một kết luậnvô cùngvững chắc.
Yết đế, yết đế… và các câu được xem là câu ‘chú’ đều có ý nghĩa, có thể được dịch thành nghĩa hoặcViệt hóa một cách minh bạch
Thật ra, trên thực tế, trong các câu thiện chú hay các bài tổng trì, ngoại trừ một số chủng tự hoặc âm tự được xem là là diệu âm, là âm thanh của Chư Phật, của pháp giới, vàthậm chí ngay cả trong những câu ác chú, thì các từ chữ trong các câu ‘chú’ hay các bài tổng trì nói chung đều có ý nghĩanhất định. Chúng ta có thể dịch nghĩa và đọc nghĩa của các câu ấy một cách bình thường, chứ không có gì là bí ẩn mà không được phép dịch qua ngôn ngữ của mình cả. Do các câu chú được xem như là những chân ngôn để bảo hộ tâm, nên bản thânchúng tôi trước nay vẫn luôn ủng hộ việc giải nghĩa các câu ‘chú’ để người trì có thể hiểu được ý nghĩatích cực và rõ biết mình đang trì những gì.
Yết đế, yết đế… là phân từ quá khứám chỉ một sự việc đã thành tựu rồi chứ không phải là một câu khuyến tấn
Nhưng có một điều thực sự tuyệt vời hơn nữa đã hiện đến khi chúng tôitìm hiểu sâu hơn về từ gate (yết đế) này. Đó là khi đọc kỹ để đối chiếu với cách dịch nghĩa của các bản dịch Anh ngữ, Pháp ngữ, so với phiên bản Horyu-ji, và các bản theo truyền thống Nepal và Tây Tạng, thì chúng tôi đã nhận xét thấy rằng gần như tất cả các bản dịch đều đã dùng đạng thì quá khứ để dịch các từ gốc gate, gate, pāragate và pārasaṁgate (yết đế, yết đế, ba layết đế, ba la tăng yết đế).
Và rồi theo đúng như ý nguyện và chí hướng khai phóng của Thượng Tọa Thích Tuệ Hải khi muốn Việt hóa hoàn toàn, làm mới, cũng như nâng tầm tâm linh của bản Việt dịch Tinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa, nên từ đó về sau, toàn bộ câu mà trước đây được xem như là một câu chú: “Yết đế, yết đế, ba layết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha,” thì bây giờ đã được thay thế trọn vẹn bằng câu kết luậnmô tảcảnh giớihoàn toàn vượt thoát (chứ không mang hình thức của một câu ‘chú’ nữa) bằng ngữ nghĩa thuần Việt:
“Vượt rồi, vượt rồi, vượt thoát rồi, hoàn toàn vượt thoát rồi, giác ngộviên mãn, ta bà ha.”
BTN 14. iti prajñāpāramitāyām hṛdayaṃ samāptaṃ và sự viên thành của trí tuệ Bát NhãHiện Tiền
Nghĩa đen:
Bản dịch TTBNBLMĐ:
* Tóm tắt: Câu này trước đây được dịch là “Tinh túy Bát Nhã Ba La Mật Đakết thúc ở đây,” ngụ ý rằng đây là câu kết thúcbản Kinh văn. Nhưng do samāptaṃ là một phân từ quá khứbị động nên một cách diễn đạt khác là đối với một hành giảtu chứng thì Trí tuệ Bát Nhã đã viên thànhy như những gì đã được mô tả ở các đoạn trên, nên câu này cũng có thể dịch là “Tinh Túy Bát Nhã Ba La Mật Đa đã viên thành như thế.”
Lời cuối, xin cho con được kính lễ thâm ân công ơngiáo hóa muôn một của Sư PhụTrụ Trì Chùa Long Hương – Thượng Tọa Thích Tuệ Hải, cũng như kính ơn Sư Phụ đã từ bigia trì, hộ niệm để chúng con được phép ghi chép lại những lời này, lưu lại thành một tài liệulịch sử và tham khảo, và con xin được thành tâmsám hối mọi lỗi lầm và sai sót do thiểu trí.
Đặc biệt là chúng con xin được mạo muội kính chia sẻ các thông tin trên đây lên trên Chư vị Tôn Túc, Chư hành giả, Chư học giả, Chư dịch giả trong lĩnh vực Phật học; ngưỡng mong Chư vị hoan hỷ quán xét và chỉ dạy thêm.
Nguyện mong tất cả mọi người trong mọi tầng lớp, tất cả những ai hữu duyên, đều nhận ra được chân giá trị từ bản Việt dịch Tinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa theo tinh thần dịch thuật vượt thoát mà Bậc Thầy tôn kính của chúng con đã đem hết tâm huyết ra để hiệu đính, hoàn thiện và làm cho lan tỏa, với tâm nguyện làm mới hoàn toàn và Việt hóa hoàn toàn bản Bát Nhã Tâm Kinh để góp phần xây dựng cho trang lịch sửĐại Thừa Phật GiáoViệt Nam.
Hơn thế nữa, sự cống hiến này của Thầy đã đến từ tâm huyết của trọn một đời gian khó trải mình cho tu tập. Tâm nguyện của Thầy chúng con là muốn nâng tầm Bát Nhã Tâm Kinh lên một tầng tâm linh siêu vượt, một tầng chuyên môn của bậc tu chứng, để làm thành một nét son trong lịch sửPhật Giáo, không chỉ cho Việt Nam mà còn cho toàn thế giới. Do bởiBát Nhã Tâm Kinh cần được đặt trở lại vào đúng vị trí của nó, để Bát Nhã Tâm Kinh có thể nói lên được trọn vẹntinh thầngiác ngộgiải thoáttuyệt đối của Phật đạo, để Bát Nhã Tâm Kinh không chỉ thuần túy là một bản Kinh nặng về lý thuyết với các luận cứ phủ định, mà rốt ráo sẽ đem đến được lợi lạc đích thực, khai thông được năng lựcgiác ngộ vốn vô tậnvô biên, vốn viên mãn, vốn sẵn đủ nơi mỗi người.
Một số nguồn của các dị bản Bát Nhã Tâm Kinh bằng Phạn ngữ Sanskrit:
1. Thư Viện Đại Học Viện Oxford (Anh quốc, 1884). Nguyên bản Phạn (hệ chữ viết Devanagari)(trang1819): http://www.downloads.prajnaquest.fr/BookofDzyan/Sanskrit%20Buddhist%20Texts/prajnaparamita_hrdaya_and_usnisa_vijaya_1884.pdf
[1]Eng Jin Ooi là Nghiên cứu sinh tiến sĩ thuộc Đại học Mahidol, Thái Lan, chuyên ngành Phạn-Pali Cao Đẳng Phật Học (2019-2020), và hiện tại (2022) là Nghiên cứu sinh sau tiến sĩ, Đại học Chulalongkorn, Thái Lan, chuyên ngành Ngôn ngữ Nam Á.
Ratna Siddhārtha Dhyāna hiện tại (2022) là Nghiên cứu sinh tiến sĩ thuộc Đại học UCLouvain, Vương quốc Bỉ, chuyên ngành Ngôn ngữ, Văn học và Dịch thuật.
[1]Các câu viết chữ nghiêng đậm trong danh sách là Phạn văn Sanskrit trong bản lá cọ Horyu-ji. Các câu viết chữ thẳng đậm là các câu do Tỳ Kheo Thích Tuệ Hảihiệu đính và hoàn thiện trong bản KinhTinh TúyBát Nhã. Các câu trích dịch trong các phần mở ngoặc (thay vì:…) là trích từ các bản âm Hán/Hán-Việt dựa trên: phiên bản âm Hán văn ngắn và phổ biến của Ngài Tam Tạng Pháp SưHuyền Trang; phiên bản Hán văn ngắn do Ngài Bukong (Bất Không Kim Cương-Amoghavajra) hiệu đính, tìm thấy trong động Đôn Hoàng; các bản Việt dịch của Chư Ôn Cố Lão Hòa Thượng: Thích Trí Quang, Thích Trí Thủ, Thích Nhất Hạnh (bản cũ), Thích Thiện Hoa; cũng như bản Việt dịch dài theo truyền thừaTây Tạng của Hồng Như Thubten Munsel.
[1]Bản ngắn theo truyền thống Trung Hoa và Việt Nam. Riêng bản dài theo truyền thốngTây Tạng và Nepal có thể được tìm thấy tại trang nhà: Digital Sanskrit Buddhist Cannon (www.dsbcproject.org)
[1]Đặc biệt làcác bài dịch từ bản gốc Phạn qua Anh của Tỳ Kheo Anandajoti Bhikhhu, Edward Conze, Red Pine, và Theosophical University Press; bản dịch từ Phạn qua Việt của TS Thế Dân; từ Hoa qua Anh của Chung Tai, từ Nhật qua Anh của Andrew May, từ Tạng qua Anh của Geshe Thupten Jinpa và từ Anh qua Việt của Đỗ Hoàng Duyệt và Hồng Như; các bài khảo cứu từ bản Phạn gốc trên trang Đạo Phật Ngày Nay, Jayaraya’s Raves và Sunyata GL, một số trang mạng và các tự điển Phạn-Việt và tự điển Phạn-Anh.
[1]Lopez, Introduction, trang13
[1]Trong bản Việt dịch được phổ biến lâu nay, câu này được Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch là “Diệu lý của Chư Phật chẳng có quan hệ đến văn tự.” Trong bản dịch Anh ngữ của Pine, câu này là như sau: “The profound truths of the buddhas don’t depend on the words.” (Pine, 2006; trang 121). Đoạn này trích dịch từ bản dịch Hán-Anh có tên The Platform Sutra: The Zen Teachings of Hui-Neng, Phần I (Đoạn 1-11). Theo Pine thì đây không phải là Shaochou (Thiều Châu) mà chính là Shaokuan (Thiều Quang) tức là trên đường Ngài đi về hướng bắc, chứ không phải hướng nam như trong sử thường ghi (?). Thiều Quang là nơi hiện còn lưu lại nhục thân của Lục Tổ Huệ Năng.
[1]Tanahashi, trang 68-69
[1]Pine, trang 71
[1]Cũng xin nói thêm là vào khoảng năm 2020, một thời gian sau khi Tinh TúyBát Nhã Ba La Mật Đa đã ra đời, chúng tôi có đọc được một bài luận giải của Jayarava Attwood, The True History of the Heart Sutra, III (trên trang jayarava.blogspot.com). Trong đó ông cũng đã lập luận rằng Tâm Kinh đang mô tảcảnh giới tan biến thành Không của người tu chứng. Đến đầu năm 2022, chúng tôi cũng lại đọc được tài liệu giảng về Tâm Kinh của Đạo sư Taranatha danh tiếng (tk 16-17), thì mới hay ra là truyền thống‘Shentong’ (Tha Không – Pháp tánh) của Phật Giáo Tây Tạng cũng đã từng dạy về Tâm Kinh như là một kinh nghiệmthể nhậpPháp tánh hay Chân không diệu hữu, nhưng trong quá khứ, giáo lý này đã bị ếm nhẹm trong thời kỳđộc tôn của dòng Gelug bởi các vấn đề chính trị và cũng do bởi dòng Gelug luôn ủng hộ‘Rangtong’ (Tự Không) và muốn bảo vệgiáo lý phủ định của‘sự không có tự tánhđộc lập,’ cho đây là giáo lýchính yếu và duy nhất của Tâm Kinh. Thêm vào đó, trong một buổi lược giảng về Tâm Kinh vào năm 2022 trên mạng trực tuyến, Trưởng Lão Garchen Rinpoche dòng Drikung Kagyu Phật Giáo Tây Tạng (https://www.youtube.com/watch?v=L_nD56IUID0), là một dòng truyền thừa chú trọng về Thiền Đại Thủ Ấn và các thực hànhdu già, cũng đã khẳng định rằng Tâm Kinh đang mô tảkinh nghiệmthâm nhậpcảnh giới Không của một bậc tu chứng. Hiện nay dòng Karma Kagyu và dòng Jonang của Phật Giáo Tây Tạng vẫn tiếp tục giảng dạy về ‘Shentong’ để bổ sung cho ‘Rangtong.” Xin tìm hiểusơ lược qua các thông tin trên các trang như sau: https://en.wikipedia.org/wiki/Rangtong_and_shentong; hoặc trang https://encyclopediaofbuddhism.org/wiki/Rangtong_and_Shentong_-_Rime_Approach; hoặc qua
tài liệu của Khenchen Thrangu Rinpoche:https://thuvienhoasen.org/a20844/6-truong-phai-trung-dao.
[1]Cả hai bản dịch Anh ngữ sau đây cũng đều chuyển dịch theo nghĩa ‘không nhơ, không nhiễm’(amalā + avimalā). Đó là: phiên bản do Vaidya, P.L. hiệu đính trích trong Nhiếp Đại Thừa Kinh (Mahāyāna-sūtra-saṃgrahaḥ/Digital Sanskrit Buddhist Canon) thuộc Đại học viện University of the West, đã được Eng Jin Ooi dịch và chú giải (2017), và phiên bản đã được hiệu đính trong Appendices: Recession B do Johnathan Silk dịch theo truyền thốngTây Tạng (Wien: Universität Wien, 1994)
[1]https://vi.wikipedia.org/wiki/Cưu-ma-la-thập