Chiếc Bè

CHIẾC BÈ
A Lan Nhã

Một người đang đi trên con đường xa dài, đến một
vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kiaan ổnkhông
kinh
hãi. Vùng nước dài rộng, nhưng không có thuyền để vượt qua, và cũng không
có cầu bắc từ bờ này qua bờ bên kia.

Anh ta suy nghĩ: “Đây là vùng nước rộng, bờ bên này
nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kiaan ổnkhông kinh hãi, nhưng không có
thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia. Nay ta hãy
thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá, cột lại thành chiếc bè, và dựa trên chiếc bè này,
tinh tấn dùng tay chân, có thể vượt quabờ bên kia một cách an toàn”.

Nghĩ rồi, rồi anh ta bèn thâu góp cỏ, cây, nhánh,
lá cột lại thành chiếc bè, và nhờ chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân vượt quabờ bên kia một cách an toàn. Khi qua bờ bên kia rồi, anh ta suy nghĩ: “Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè
này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt quabờ bên kia một cách an toàn. Nay ta
hãy đội chiếc bè này trên đầu hay vác nó
trên vai, và đi đến chỗ nào ta muốn”.

Và, tri ân chiếc bè như thế, không ngần ngại, anh
ta đội chiếc bè trên đầu và tiếp tục cuộc hành trình của mình, mặc người đời
xào
, bàn tán!

(Kinh Trung bộ, tập I, kinh Ví dụ con
rắn
– Alagaddùpama sutta.
HT.Thích Minh Châu Việt dịch)

Bàn thêm:

Tri ân là điều đáng quý, nhưng tri ân theo kiểu anh
chàng trong câu chuyện kể trên thì thật ngốc. Bởi, sở dụng của chiếc bè là đưa
người qua sông, qua vùng nước để đến bờ bên kiađáo bỉ ngạn.

Bờ bên này là chỉ cho thân kiến, sự chấp chặt vào
bản ngã, tham đắm các dục – các dục vui ít, khổ nhiều, đầy chướng ngại, hiểm
nguy và kinh hãi. Bờ bên kiaNiết bàn, tịch tịnh an vui, đoạn trừ tham áichấp thủ. Chiếc bè là pháp tu, là Bát chánh đạo.

Người tu tập rõ biết vô minh, tham ái, chấp thủ
chính là đầu mối của khổ, là nguyên nhân của sinh tử luân hồi. Cần phảichân
chính
nhận rõ cái “tôi”, cái “của tôi” và “tự ngã của tôi”, diệt trừtham ái,
chấp thủ. Các pháp tu chínhphương tiện giúp chúng ta có được cái nhìn chân
chính
ấy. Nhưng khi chúng tađạt đượcmục đích cũng chính là lúc chúng tatừ bỏphương tiện, vì còn nắm giữ (dù là pháp hay phi pháp), cũng đều là trạng tháichấp thủ, bất ankinh hãi như Đức Phật đã dạy.

Trong nhà thiền phân biệt hai cách tu: một là dùng pháp, và hai là pháp dùng.

Dùng pháp tức là nương vào các phương pháptu
tập
(phương tiện) để tu trì, như tụng kinh, ngồi thiền, niệm Phật, ăn chay, giữ
giới
v.v… để đoạn trừ tham ái, chấp thủ, vô minh, thấu rõ được các pháp vốn là
giả hợp, tự tại trước vô thường, trút sạch được cái “tôi”, đạt đếncứu cánhniết bàn. Cái tôi và cái của tôi được trút sạch, không còn bám giữ, tức “xả
pháp”, thì cũng đâu còn bám vào phương tiện.

Còn
pháp dùng, tức cũng giống kẻ ngu đội chiếc bè trên đầu kia, bị phương tiệntrói buộc, không thể đạt đến cứu cánh. Bởi tự thân các phương pháptu tập không
phải là mục đích, nó là “ngón tay chỉ trăng” chứ không phải “mặt trăng”. Người
tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền… mà còn nghĩ mình làm thế để được làm Phật
người bị
pháp dùng chứ không phải dùng pháp. Người dùng pháp phải
hiểu rõ rằng đó chỉ là những phương tiện để chúng ta thấy rõ được bản tâm của
mình. Một khi còn bị cái “tôi” sai sử trói buộc, tức chúng ta còn đầy dẫy những
sự mê lầm, không thể có được cái nhìn chân chính.

Chúng tôi xin mở ngoặc để đưa ra một ví dụ dễ hiểu.
Như ở đời, người ta dùng tiền làm phương tiệntrao đổi. Nỗ lực “chánh
mạng” làm ra tiền để phục vụ cho đời sống
dùng tiền. Còn khi vì bất chấp thủ đoạn, lường
gạt, chèn ép để đạt được tiền bằng mọi cách, hay vì tiền mà làm bất kỳ điều gì
là bị
tiền dùng, bị sai sử bởi đồng tiền. Người như thế thật đáng
thương!

Chúng ta vẫn thuờng nghe: Được cá thì quên nơm, được ý thì quên lời, nên
phải nương nơi lời mà đạt ý. Đạt ý mà vẫn còn chấp lời thì chưa thể gọi là
liễu ngộ. Đức Phật vì muốn diễn bày thật nghĩa nên phải dùng vô sốphương tiện;
chúng ta phải nương theo phương tiện để ngộ lẽ chân thật chứ không phải khư khư
ôm lấy phương tiệnmắc kẹt vào đó. Những người chỉ biết đem phương tiện
(pháp) ra để hý luận, tranh cãi mà không biết nương vào đó để tu tập thì không
những không đạt được chút ích lợi nào, mà ngược lại còn bị vướng vào muộn
phiền, khổ não.

Do đó, Phật dạy: Pháp còn phải bỏ huống hồ phi
pháp!

Nguồn: Nguyệt san Giác
Ngộ
Số Vu Lan 185 / Tuyển Tập Vu Lan TVHS