|  ĐỨC PHẬTTHUYẾT GIẢNG VỀ SỰ ĐAU ĐỚN Sallatha Sutta (Bài Kinh về Mũi Tên)
 Hoang Phong chuyển ngữ
     Lời giới thiệu của người dịch
  Mũi tên biểu trưng cho một sự đauđớn trên thân xác, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây ra một sự hoảng sợ
 trong tâm thần. Phật Giáo chủ trương một cá thểgồm cósáu giác quan, ngoài ngũ
 giác ra thì tri thức hay tâm thức cũng được xem như là một giác quan, đối tượng
 nhận biết của nó là xúc cảm, tư duy, ảo giác, kỷ niệm, trí nhớ, sự tưởng tượng,
 các giấc mơ, v.v…
  Mũi tên đâm vào da thịt khiến ngườibị trúng tên đau đớn, thế nhưng cũng có thể khiến cho người này hoảng sợ, la
 hét, kinh hoàng, tức giận, oán trách, hoặc cũng có thể ngất xỉu. Trong bài kinh
 dưới đây Đức Phật gọi các xúc cảm đớn đau ấy là do một mũi tên thứ hai bắn
 trúng vào tâm thức mình, tức là xuyên vào cơ quan giác cảm thứ sáu của mình.
 Một người tu tập không để cho mũi tên thứ hai ấy bắn trúng mình và chỉ nhận
 biết sự đau đớn trên thân xác gây ra bởi một mũi tên duy nhất mà thôi. Hơn nữa
 người tu tập cũng xem sự đau đớn ấy không phải là thuộc của mình, không phải là
 mình, và đấy cũng là một phương cách khác giúp mình tự tách rời ra khỏi những
 khổ đau trong cuộc sống.
  Điểm thứ hai mà Đức Phật nêu lêntrong bài kinh này là một sự mở rộngliên quan đếnphản ứng của chúng ta trước
 những giác cảm đớn đau. Thật vậy hằng ngàychúng ta bị không biết bao nhiêu mũi
 tên đủ loại nhắm bắn, có những mũi tên chỉ làm sướt da nhưng đôi khi cũng có
 những mũi tên phập vào chỗ nhược, và cứ mỗi mũi tên phập vào các giác quan trên
 thân xác thì lại còn kèm thêm một mũi tên thứ hai bắn vào tâm thức mình nữa.
 Thay vì nhìn thẳng vào những thứ đau đớn đó để tìm cách hóa giải chúng thì
 chúng ta lại tìm mọi cách khỏa lấp, che dấu và “bù đắp” chúng bằng lạc
 thú, và trong bài kinh này thì trong số các lạc thú ấy Đức Phật chỉ nêu lên dục
 tính là một hình thứclạc thú mạnh nhất mang tính cáchbản năng.
  Khổ đau theo Phật Giáo mang ý nghĩathật sâu sắc và bao quát: từ những “khổ đau của khổ đau” tức là những
 sự đau đớnthô thiển nhất trên thân xác, cho đến những “khổ đau gây ra bởi
 vô thường” tức là khổ đau của sự bất toại nguyện, và cả những “khổ
 đau thật sâu kín” thuộc bản chất của sự hiện hữu, tức là khổ đau của sự
 hình thành trói buộc. Nếu mở rộng tầm nhìn thì chúng ta sẽ thấy rằng dưới một
 góc cạnh nào đó sự sinh hoạt của con người hầu hết là nhằm để khỏa lấp và bù
 đắp cho các thứ khổ đau mang tính cáchhiện sinh trên đây: nào là âm nhạc, trò
 chơi điện tử, phim ảnh, quần áo phấn son, xe hơi bóng loáng… cho đến các lạc
 thúdục tính mà người ta thường gọi dưới một cái tên thật đẹp là “tình
 yêu”.
  Bài kinh về Mũi Tên chuyển ngữ dướiđây được dựa vào hai bản tiếng Anh của Thanissaro Bikkhu và của Nianaponika
 Thera, một bản dịch tiếng Pháp của Michel Proulx và một bản Việt dịch của Hòa
 Thượng Thích Minh Châu. Nhằm giúp người đọc tiện tham khảo thêm, các bản dịch
 này cũng sẽ được gom chung trong phần phụ lục.
   BÀI KINH VỀ MŨI TÊN (Sallatha Sutta, SN 36.6)
 (Tương Ưng Bộ Kinh/Samyutta Nikaya, PTS: S iv 207. CDB ii 1263)
 Hoang Phongchuyển ngữ   “Nàycác tỳ kheo, một người bình dị không được học hỏi cảm biết được các giác cảm thích
 thú, đớn đau, không thích-thú-cũng-không-đớn-đau (trung hòa). Một môn đệ cao quý được
 hưởng sự giáo huấn cũng cảm biết được các giác cảm thích thú, đớn đau,
 không-thích-thú-cũng-không-đớn-đau. Vậy sự khác biệt ở đâu, sự cách biệt giữa
 họ như thế nào, và các yếu tố nào giúp để phân biệt giữa một môn đệ cao quý được
 hưởng sự giáo huấn và một người bình dị không được học hỏi?
 “BạchThế Tôn, Thế Tôn là cội nguồn của những lời giáo huấn, là người giảng dạy và
 cũng là người bình giảỉ. [Vì thế] tốt hơn hết xin Đấng Thế Tôn hãy giải thích
 về ý nghĩa của câu ấy. [Nếu] được nghe chính Đấng Thế Tôn nói lên thì các tỳ
 kheo sẽ mãi mãi ghi nhớ những lời nói ấy.
 – Này các tỳ kheo, vậy hãy chăm chúlắng nghe, Ta sẽ giảng.
 Các tỳ kheovâng dạ: – Bạch Thế Tôn, chúng con xin lắngnghe.
 Đấng Thế Tôn giảng rằng: “Mộtngười bình dị không được học hỏi mỗi khi phải gánh chịu một giác cảm đau đớn,
 thì sẽ ta thán, oán trách, đau buồn, đấm ngực (hối tiếc vì mình đã lỡ lầm) và hoảng
 sợ. Đấy là cách mà người ấy cảm nhận hai sự đau đớn: trên thân xác và trong tâm
 thần. Chẳng khác gì như người ta bắn một mũi tên vào một người nào đó, sau đấy
 lại bắn thêm một mũi thứ hai: người này tất phải chịu sự đau đớn của hai mũi tên.
 Cũng thế, một người bình dị không được học hỏi mỗi khi phải gánh chịu một cảm nhận
 đớn đau thì sẽ
 ta thán, oán trách, đau buồn, đấm ngực và hoảng sợ. Đấy là cách mà người ấy cảm
 nhận cả hai thứ khổ đau: trên thân xác và cả trong tâm thần.
 “Khi phải gánh chịu một giác cảmđau đớn thì một người không được học hỏi sẽ tìm cách kháng cự lại(cưỡng lại, không
 chấp nhận) sự đau đớn ấy. Người này sẽ không sao tránh khỏibị ám
 ảnh bởi thái độ kháng-cự-bướng-bỉnh ấy của mình. Vì phải gánh chịu giác cảm đau
 đớn ấy [nên]người
 này tìm sự vui thích trong các lạc thúdục tính(với mục đích “che lấp” hay “bù
 đắp” các giác cảm đau đớn của mình). Tại sao lại như thế? Bởi
 vì một người bình dị không được học hỏi sẽ không thể tìm được một lối thoát
 nào khác hơn trước các giác cảm đau đớn của mình, ngoài các lạc thúdục tính. Khi
 đã tìm kiếm sự vui thích trong các lạc thúdục tính, thì người ấy tất sẽ bị ám
 ảnh bởi bất cứ một sự đam-mê-bướng-bỉnh nào đối với các lạc thú ấy. [Vì] không nhận
 biết được thật sự giác cảm [lạc thú] ấy bắt nguồn từ đâu, sự chấm dứt của nó là
 gì, sức quyến rũ của nó như thế nào, các tác hại của nó ra sao và đâu sẽ là lối
 thoát, [nên] người ấy luôn bị ám ảnh bởi sự vô-minh-bướng-bỉnh của mình đối với
 các giác cảm không-thích-thú-cũng-không-đớn-đau.
 “Cảm nhận được sự thích thú, ngườiấy có cảm giác như mình gắn liền với nó (sự thích thú và mình là một). Cảm nhận được sự đau
 đớn, người ấy có cảm giác như mình gắn liền với nó. Cảm nhận được sự
 không-thích-thú-cũng-không đớn-đau, người ấy có cảm giác như mình gắn liền với
 nó. [Vì thế] có thể xem người ấy là một người bình dị không được học hỏi, một
 người gắn liền với sự sinh, già nua và cái chết, với đau buồn, ta thán, khốn
 cùng và tuyệt vọng. Này các tỳ kheo, Ta bảo rằng người ấy tự trói mình với khổ
 đau.
 “Đối với một môn đệ cao quý được hưởng sự giáohuấn thì dù phải gánh chịu một giác cảm đau đớn thì cũng không ta thán, oán
 trách, đau buồn, không đấm ngực cũng không hoảng sợ. Vì thế người ấy cũng chỉ
 cảm nhận một sự đau đớnduy nhất trên thân xác, không có một sự đau đớn nào xảy
 ra trong tâm thần. Đấy cũng chẳng khác gì như người ta chỉ bắn một mũi tên vào một người nào
 đó, và sau đấy thì không bắn thêm một mũi tên nào khác nữa. Vì thế người ấy
 cũng chỉ cảm nhận sự đau đớn gây ra bởi một mũi tên duy nhất mà thôi. Cũng thế,
 một môn đệ cao quý được hưởng sự giáo huấn thì dù phải gánh chịu một giác cảm
 đau đớn thì cũng không ta thán, oán trách, đau buồn, không đấm ngực cũng không
 hoảng sợ. Người ấy chỉ cảm thấyđau đớnduy nhất trên thân xác, nhưng tâm thần thì
 không hề xao xuyến.
 “Ngườinày dù phải gánh chịu giác cảm đau đớn nhưng không tìm cách kháng cự lại. Người
 này sẽ không hề bị ám ảnh bởi sự kháng-cự-bướng-bỉnh của mình đối với sự cảm nhận
 đớn đau. Dù phải gánh chịu sự cảm nhận đớn đau thế nhưng người này không tìm kiếm
 sự vui thích trong các lạc thúdục tính. Tại sao lại như thế? Bởi vì một môn đệ cao quý được
 hưởng sự giáo huấn, sẽ quán thấy thật rõ ràngphương pháp giúp mình thoát ra khỏi
 các giác cảm đớn đau, khác hơn là bằng cách tìm kiếm các lạc thúdục tính. Vì
 không hề tìm kiếm sự vui thích trong các lạc thúdục tính, nên người ấy sẽ
 không bị ám ảnh bởi sự đam-mê-bướng-bỉnh của mình đối với các giác cảm thích
 thú. Nhờ quán thấy thật minh bạch nguồn gốc, sự chấm dứt, sự quyến rũ, các tác
 hại của các giác cảm ấy và cả phương cách thoát ra khỏi chúng, nên người ấy
 không còn bị chi phối bởi sự vô-minh-bướng-bỉnh của mình đối với các giác cảm
 ấy cũng như đối với thể dạng không-thích-thú-cũng-không-đớn-đau.
 “Cảm nhận sự thích thú, ngườiấy cảm thấy mình tách rời ra với nó. Cảm nhận sự đau đớn, người ấy cảm thấy
 mình tách rời ra với nó. Cảm nhận được giác cảm không
 thích-thú-cũng-không-đau-đớn, người ấy cảm thấy mình tách rời ra với nó. [Vì thế]
có thể xem người ấy như là một môn đệ cao quý được hưởng sự giáo huấn, đã tách
 ra khỏi sự sinh, sự già nua và cái chết, đã tách ra khỏi mọi thứ lo buồn, ta
 thán, đau buồn, khốn cùng và tuyệt vọng. Ta bảo cho các tỳ kheo biết rằng người
 ấy đã thoát ra khỏi khổ đau”.
 Kệ Đấy là sự khác biệt, sự chênh lệch, vàcũng là các yếu tố giúp phân biệt giữa một môn đệ cao quý được hưởng sự giáo
 huấn và một người bình dị không được học hỏi.
 Những ai đã quán thấy và [chăm lo] họchỏi sẽ không cảm thấy [trong tâm thần mình] một sự cảm nhận thích thú hay đớn
 đau nào, đấy là sự khác biệt về sự khôn khéo giữa một kẻ sáng suốt và một người
 bình dị.
 Đối với một người được hưởng sự giáohuấn, thấu triệt được Dhamma (Đạo Pháp)
 và quán thấy được thật minh bạch [nhữnggì sẽ xảy ra với mình] trong kiếp sống này và cả kiếp sống sau,
 Thì những gì mang tính cáchthích thúsẽ không thể mê hoặc được tâm thức người ấy,
 và những gì ghét bỏ cũng sẽ khôngthể tạo được một sự đề kháng nào của người ấy.
 Dù có chấp nhận hay không chấp nhậnnhững thứ ấy, thì cuối cùng chúng cũng tan biến hết, nào chúng có hề hiện hữu
 đâu!
 Khi đã quán triệt được thế nào là sựô nhiễm(của lạc
 thú) và thể dạng đau buồn (mang lại từ giác cảm), thì người ấy sẽ vượt lên
 trên mọi sự hình thành và đạt được Bến Bờ Bên Kia.
   Vài lời ghi chú của người dịch  Nội dung của bài kinhtương đốidễhiểu và đã được tóm lược trong phần giới thiệu trên đây, tuy nhiênchúng ta cũng
 có thể đối chiếu các bản dịch khác nhau, ít nhất là trên phương diệnhình thức,
 hầu giúp mình tìm hiểu và học hỏi thêm. Kinh điển là một phương tiện chuyển tải
 Trí Tuệ của Đức Phật, và các bản kinh đầu tiên bằng tiếng Pa-li cũng chỉ bắt đầu
 được ghi chép trên lá bốivào khoảng cuối thế kỷ thứ I trước Tây Lịch, khi người
 Tamil từ miền nam Ấn Độ tràn lên đảo Tích Lan đánh phá. Chúng ta cũng cần ý thức
 rằng Đức Phậtthuyết giảng cho những người dân chất phác trong thung lũng sông
 Hằng cách nay đã hơn 25 thế kỷ, và không mấy người trong số họ được đi học và
 biết chữ như chúng ta ngày nay. Tuy thế sau gần 5 thế kỷ truyền khẩu và 20 thế
 kỷ sao chép và dịch thuật, chúng ta vẫn còn thừa hưởng được những lời thuyết giảng
 sâu sắc và siêu việt của Đức Phật. Quả đấy là cả một kỳ công trong lịch sửtư
 tưởngnhân loại, tất cả đều nhờ vào sức cố gắngphi thường của các thế hệtiền
 nhân.
  Vì thế chúng ta cũng nên tiếp tụcbảotồngia tài đó một cách xứng đáng và cẩn thận. Thanissaro Bikkhu (1949…),
 Nyanaponika Thera (1901-1994), Hòa Thượng Thích Minh Châu (1918-2012), Thiền sư
 Michel Proulx…là một vài vị tiêu biểu cho cả một số người thật đông đảo đã hy
 sinhtrọn đời mình để đảm đangtrọng trách đó.
   1   2     3
 1- Thanissaro Bikkhu (1949…)2- Nyanaponika Thera (1901-1994)
 3- HT Thích Minh Châu (1918-2012)
 4- Thiền sư Michel Proulx (chân dụng tự họa)
  Dầu sao thì công việc dịch thuật cũngkhó tránh khỏiảnh hưởng của cá tính người dịch cũng như bối cảnh văn hóa của từng
 địa phương và thời đại. Các bản dịch bài kinhSallatha Sutta của các vị trên đây do đó cũng đã mang một vài nét
 khác biệt nhau. Thanissaro Bikkhu và Nyanaponika Thera đều cố gắng dịch một cách
 thật dễ hiểu, tuy nhiên bản dịch của Thanissaro tỏ ra từ chương hơn, và trong
 hai câu sau đây trong bản dịch của ông có một chữ mới là chữ stress
 (chứng căng thẳngthần kinh) do chính
 ông ghép thêm vào:
 “… He is joined, I tell you, from suffering& stress” (câu này ở khoảng
 giữa bài kinh)
 “… He is disjoined, I tell you, from suffering & stress“ (câu kết củabài kinh)
 Tạm dịch:  “…Này các tỳ kheo, Ta bảo rằng người ấy tự trói mình với khổ đau& căng thẳng tâm thần”
 “… Ta bảo cho các tỳ kheo biết rằng người ấy đã thoát ra khỏi khổđau và căng thẳng tâm thần”
  Chữ căng thẳngtâm thần hay căng thẳngthần kinh là một thuật ngữ thuộccác ngành y khoa và tâm lý học hiện đại, và thiết nghĩ cũng không cần ghép thêm
 chữ này vào chữ khổ đau(dukkha/suffering) trong bản kinh gốc, bởi
 vì chữ dukkha (khổ đau) trong Phật Giáo cũng đã mang ý nghĩa thật rộng và đầy đủ, bao
 hàm từ các thứ “khổ đau của khổ đau”,
 “khổ đau vì vô thường” và “khổ đau vì bản chấttrói buộc của sự hiện
 hữu”. Văn phong trong bản dịch của Nyanaponika có vẻ
 “hiện đại” hơn và cũng không thấy dịch phần kệ kèm theo bài kinh, có
 thể Nynaponika cũng đã ý thức được rằng các câu kệ ấy không phải là các lời
 thuyết giảng của Đức Phật. Bản dịch tiếng Pháp căn cứ vào hai bản tiếng Anh
 trên đây cho thấy cách dùng chữ rất khéo và ý nghĩa trong bài kinh cũng được
 diễn đạt rất rõ, thế nhưng trong phần dịch các câu kệ thì lại cho thấy dường như
 có một sự tránh né nào đó. Có lẽ Michel Proulx muốn tránh không nêu lên khái
 niệm luân hồi nên trong câu kệ: “Đối
 với một người được hưởng sự giáo huấn, thấu triệt được Đạo Pháp và quán thấy được
 [những gì sẽ xảy ra với mình] trong kiếp
 sống này và kiếp sống sau…” đã dịch các chữ kiếp sống này và kiếp sống sau là thế giới này và thế giới khác, do đó không nói lên được ý nghĩa của
 câu này trong bản gốc.
  Đối với bản Việt dịch của Hòa Thượng ThíchMinh Châu thì chúng tanhận thấyrõ ràng là Hòa Thượng đã sử dụng quá nhiều chữ
 Hán, do đó bản dịch trở nên khó hiểu cho một số người ngày nay thường không có
 căn bản Hán học. Chẳng hạn như trong các câu mở đầu bài kinhĐức Phật nêu lên
 chủ đề là có những sự khác biệt nào giữa một người bình dị và một người tu hành
 khi cả hai đều cảm biết được như nhau các giác cảm thích thú, đau đớn và không-thích-thú-cũng-không-đau-đớn.
 Thế nhưng Hòa Thượng đã dịch câu này một cách rất từ chương và bằng các thuật
 ngữ tiếng Hán như sau:
 “Này các Tỳ-kheo, kẻ vô vănphàm phu, cảm thọcảm giáclạc thọ, cảmthọcảm giáckhổ thọ, cảm thọcảm giác bất khổ bất lạc thọ.
 Này các Tỳ-kheo, bậc Đa văn Thánh đệ tử cũng cảm thọcảm giáclạc thọ, cảmthọcảm giáckhổ thọ, cảm thọcảm giác bất khổ bất lạc thọ.
 Ở đây, này các Tỳ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nàolà sai biệt giữa bậc Đa văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?”
  Cách dịch đó vừa dài dòng lại vừa khóhiểu. Nói rộng hơn thì chúng ta sẽ thấy rằng nếu Phật Giáo Việt Nam còn tiếp tụclệ thuộc quá nhiều vào kinh sách Hán ngữ thì việc phát triển sẽ còn gặp nhiều
 khó khăn và trở ngại.
  Ngoài rasở dĩbài kinh trên đây đãđược chọn và lược dịch là nhằm tiếp tục một loạt bài với chủ đề “Quan điểm
 của Phật Giáo về sự Đau Đớn và Bệnh Tật”, mà ba bài đã được đưa lên trang
 Thư Viện Hoa Sen trước đây:
  – Cái chết là một thứ bệnh ung thư (Ajahn Liem)  – Y khoa cũng chỉ là phép luyện đan (Khyentsé Rinpoché)  – Không nên trì hoãn sang ngày hôm sau (Đạo Nguyên)    Bures-Sur-Yvette,09.04.14
  HoangPhongchuyển ngữ
   Phụ Lục I- Bản dịchtiếng Anh từ tiếng Pa-li của Thanissaro Bhikkhu (1997)
 The Arrow “Monks, an uninstructedrun-of-the-mill person feels feelings of pleasure, feelings of pain, feelings
 of neither-pleasure-nor-pain. A well-instructed disciple of the noble ones also
 feels feelings of pleasure, feelings of pain, feelings of
 neither-pleasure-nor-pain. So what difference, what distinction, what
 distinguishing factor is there between the well-instructed disciple of the
 noble ones and the uninstructed run-of-the-mill person?”
 “For us, lord, theteachings have the Blessed One as their root, their guide, & their
 arbitrator. It would be good if the Blessed One himself would explain the
 meaning of this statement. Having heard it from the Blessed One, the monks will
 remember it.”
 “In that case, monks,listen & pay close attention. I will speak.”
 “As you say, lord,”the monks responded.
 The Blessed One said,“When touched with a feeling of pain, the uninstructed run-of-the-mill
 person sorrows, grieves, & laments, beats his breast, becomes distraught.
 So he feels two pains, physical & mental. Just as if they were to shoot a
 man with an arrow and, right afterward, were to shoot him with another one, so
 that he would feel the pains of two arrows; in the same way, when touched with
 a feeling of pain, the uninstructed run-of-the-mill person sorrows, grieves,
 & laments, beats his breast, becomes distraught. So he feels two pains,
 physical & mental.
 “As he is touched by thatpainful feeling, he is resistant. Any resistance-obsession with regard to that
 painful feeling obsesses him. Touched by that painful feeling, he delights in
 sensual pleasure. Why is that? Because the uninstructed run-of-the-mill person
 does not discern any escape from painful feeling aside from sensual pleasure.
 As he is delighting in sensual pleasure, any passion-obsession with regard to
 that feeling of pleasure obsesses him. He does not discern, as it actually is
 present, the origination, passing away, allure, drawback, or escape from that
 feeling. As he does not discern the origination, passing away, allure,
 drawback, or escape from that feeling, then any ignorance-obsession with regard
 to that feeling of neither-pleasure-nor-pain obsesses him.
 “Sensing a feeling ofpleasure, he senses it as though joined with it. Sensing a feeling of pain, he
 senses it as though joined with it. Sensing a feeling of
 neither-pleasure-nor-pain, he senses it as though joined with it. This is
 called an uninstructed run-of-the-mill person joined with birth, aging, &
 death; with sorrows, lamentations, pains, distresses, & despairs. He is
 joined, I tell you, with suffering & stress.
 “Now, the well-instructeddisciple of the noble ones, when touched with a feeling of pain, does not
 sorrow, grieve, or lament, does not beat his breast or become distraught. So he
 feels one pain: physical, but not mental. Just as if they were to shoot a man
 with an arrow and, right afterward, did not shoot him with another one, so that
 he would feel the pain of only one arrow. In the same way, when touched with a
 feeling of pain, the well-instructed disciple of the noble ones does not
 sorrow, grieve, or lament, does not beat his breast or become distraught. He
 feels one pain: physical, but not mental.
 “As he is touched by thatpainful feeling, he is not resistant. No resistance-obsession with regard to
 that painful feeling obsesses him. Touched by that painful feeling, he does not
 delight in sensual pleasure. Why is that? Because the well-instructed disciple
 of the noble ones discerns an escape from painful feeling aside from sensual
 pleasure. As he is not delighting in sensual pleasure, no passion-obsession
 with regard to that feeling of pleasure obsesses him. He discerns, as it
 actually is present, the origination, passing away, allure, drawback, and escape
 from that feeling. As he discerns the origination, passing away, allure,
 drawback, and escape from that feeling, no ignorance-obsession with regard to
 that feeling of neither-pleasure-nor-pain obsesses him.
 “Sensing a feeling ofpleasure, he senses it disjoined from it. Sensing a feeling of pain, he senses
 it disjoined from it. Sensing a feeling of neither-pleasure-nor-pain, he senses
 it disjoined from it. This is called a well-instructed disciple of the noble
 ones disjoined from birth, aging, & death; from sorrows, lamentations,
 pains, distresses, & despairs. He is disjoined, I tell you, from suffering
 & stress.
 “This is the difference,this the distinction, this the distinguishing factor between the
 well-instructed disciple of the noble ones and the uninstructed run-of-the-mill
 person.”
 The discerning person, learned, doesn’t sense a (mental) feeling ofpleasure or pain: This is the difference in skillfulness between the sage &
 the person run-of-the-mill. For a learned person who has fathomed the Dhamma,
 clearly seeing this world & the next, desirable things don’t charm the
 mind, undesirable ones bring no resistance. His acceptance & rejection are
 scattered, gone to their end, do not exist. Knowing the dustless, sorrowless
 state, he discerns rightly, has gone, beyond becoming, to the Further Shore.
 II- Bản dịchtiếng Anh từ tiếng Pa-li của Nyanaponika Thera (1998)
 The Dart “An untaught worldling, Omonks, experiences pleasant feelings, he experiences painful feelings and he
 experiences neutral feelings. A well-taught noble disciple likewise experiences
 pleasant, painful and neutral feelings. Now what is the distinction, the
 diversity, the difference that exists herein between a well-taught noble
 disciple and an untaught worldling?
 “When an untaughtworldling is touched by a painful (bodily) feeling, he worries and grieves, he
 laments, beats his breast, weeps and is distraught. He thus experiences two
 kinds of feelings, a bodily and a mental feeling. It is as if a man were
 pierced by a dart and, following the first piercing, he is hit by a second
 dart. So that person will experience feelings caused by two darts. It is
 similar with an untaught worldling: when touched by a painful (bodily) feeling,
 he worries and grieves, he laments, beats his breast, weeps and is distraught.
 So he experiences two kinds of feeling: a bodily and a mental feeling.
 “Having been touched bythat painful feeling, he resists (and resents) it. Then in him who so resists (and
 resents) that painful feeling, an underlying tendency of resistance against
 that painful feeling comes to underlie (his mind). Under the impact of that
 painful feeling he then proceeds to enjoy sensual happiness. And why does he do
 so? An untaught worldling, O monks, does not know of any other escape from
 painful feelings except the enjoyment of sensual happiness. Then in him who
 enjoys sensual happiness, an underlying tendency to lust for pleasant feelings
 comes to underlie (his mind). He does not know, according to facts, the arising
 and ending of these feelings, nor the gratification, the danger and the escape,
 connected with these feelings. In him who lacks that knowledge, an underlying
 tendency to ignorance as to neutral feelings comes to underlie (his mind). When
 he experiences a pleasant feeling, a painful feeling or a neutral feeling, he
 feels it as one fettered by it. Such a one, O monks, is called an untaught
 worldling who is fettered by birth, by old age, by death, by sorrow,
 lamentation, pain, grief and despair. He is fettered by suffering, this I
 declare.
 “But in the case of awell-taught noble disciple, O monks, when he is touched by a painful feeling,
 he will not worry nor grieve and lament, he will not beat his breast and weep,
 nor will he be distraught. It is one kind of feeling he experiences, a
 bodily one, but not a mental feeling. It is as if a man were pierced by a dart,
 but was not hit by a second dart following the first one. So this person
 experiences feelings caused by a single dart only. It is similar with a
 well-taught noble disciple: when touched by a painful feeling, he will no worry
 nor grieve and lament, he will not beat his breast and weep, nor will he be
 distraught. He experiences one single feeling, a bodily one.
 “Having been touched bythat painful feeling, he does not resist (and resent) it. Hence, in him no
 underlying tendency of resistance against that painful feeling comes to
 underlie (his mind). Under the impact of that painful feeling he does not
 proceed to enjoy sensual happiness. And why not? As a well-taught noble
 disciple he knows of an escape from painful feelings other than by enjoying
 sensual happiness. Then in him who does not proceed to enjoy sensual happiness,
 no underlying tendency to lust for pleasant feelings comes to underlie (his
 mind). He knows, according to facts, the arising and ending of those feelings,
 and the gratification, the danger and the escape connected with these feelings.
 In him who knows thus, no underlying tendency to ignorance as to neutral
 feelings comes to underlie (his mind). When he experiences a pleasant feeling,
 a painful feeling or a neutral feeling, he feels it as one who is not fettered
 by it. Such a one, O monks, is called a well-taught noble disciple who is not
 fettered by birth, by old age, by death, by sorrow, lamentation, pain, grief
 and despair. He is not fettered to suffering, this I declare.
 “This, O monks, is thedistinction, the diversity, the difference that exists between a well-taught
 noble disciple and an untaught worldling.”
   III– Bản dịch tiếng Pháp dựa vào hai bản dịchtiếng Anh trên đây Michel Proulx
 (2004?, http://www.canonpali.org/tipitaka/suttapitaka/samyutta/sn36-006.html) La flèche “Moines, une personne ordinaire sans instruction ressent dessensations de plaisir, de douleur, de ni-plaisir-ni-douleur. Un disciple bien
 instruit des nobles personnes ressent aussi des sensations de plaisir, de
 douleur, de ni-plaisir-ni-douleur. Alors, quelle différence, quelle
 disctinction, quel facteur de discrimination y a-t-il entre le disciple bien
 instruit des nobles personnes et la personne ordinaire sans instruction?
 — Pour nous, monsieur, les enseignements ont leBienheureux pour racine, pour guide et pour arbitre. Il serait bon que le
 Bienheureux lui-même nous explique le sens de cette phrase. L’ayant entendu de
 la bouche du Bienheureux, les moines s’en souviendront.
 — En ce cas, ô moines, écoutez et soyez attentifs. Jevais parler.
 — Comme vous voudrez, monsieur,” répondirent lesmoines.
 Le Bienheureux dit: “Lorsqu’une personneordinaire sans instruction est touchée par une sensation de douleur, elle se
 lamente, se plaint, et chagrine, se frappe la poitrine, et elle s’angoisse. Ce
 qui fait qu’elle ressent deux douleurs, la physique et la mentale. Tout comme
 si on devait tirer une flèche sur un homme, et juste après, lui en tirer une
 autre, de sorte qu’il ressentirait la douleur de deux flèches. De la même
 manière, lorsqu’elle est touchée par une sensation de douleur, la personne
 ordinaire sans instruction se lamente, se plaint, et chagrine, se frappe la
 poitrine, et elle s’angoisse. Ce qui fait qu’elle ressent deux douleurs, la
 physique et la mentale.
 “Quand elle est touchée par cette sensation dedouleur, elle y résiste. Toute obsession de résistance par rapport à cette
 sensation de douleur l’obsède. Touchée par cette sensation de douleur, elle se
 complait dans le plaisir sensuel. Pourquoi cela? Parce que la personne
 ordinaire sans instruction ne voit pas d’autre échappatoire à ses sensations de
 douleur, à part dans le plaisir sensuel. Quand elle se complait dans le plaisir
 sensuel, elle est obsédée par toute passion-obsession par rapport à cette
 sensation de plaisir. Elle ne discerne pas, telle qu’elle est présente en
 réalité, son origine, sa disparition, son allure, ses écueils, ni
 d’échappatoire à cette sensation. Quand elle ne discerne ni son origine, ni sa
 disparition, ni son allure, ni ses écueils, ni d’échappatoire à cette
 sensation, alors elle est obsédée par toute ignorance-obsession en rapport à
 cette sensation de ni plaisir-ni-douleur.
 “En ressentant du plaisir, il le ressent commes’il y était joint. Ressentant de la douleur, il la ressent comme s’il y était
 joint. Ressentant ni-plaisir-ni-douleur, il le ressent comme s’il y était
 joint. C’est ce qu’on appelle une personne ordinaire sans instruction, jointe à
 la naissance, au vieillissement, et à la mort; à la peine, aux lamentations, à
 la détresse, et au désespoir. Elle est jointe, vous dis-je, à la souffrance et
 au stress.
 “Là, le disciple bien instruit des noblespersonnes, lorsqu’il est touché par la sensation de douleur, ne se plaint pas
 et ne se lamente pas, il ne bat pas sa coulpe ni ne s’affole. Il ressent donc
 une douleur; physique, mais non pas mentale. Tout comme si on tirait une flèche
 sur un homme, et que, juste après, on n’en tirait pas une autre, il ne
 ressentirait donc que la douleur d’une seule flèche. De la même manière,
 lorsque touché par la sensation de la douleur, le disciple bien instruit des
 nobles personnes ne se plaint pas et ne se lamente pas, il ne bat pas sa coulpe
 ni ne s’affole. Il ressent une douleur; physique, mais non pas mentale.
 “Comme il est touché par cette sensation dedouleur, il n’y résiste pas. Il n’est en rien obsédé par la résistance à la
 sensation de douleur qui le touche. Touché par cette sensation de douleur, il
 ne se complait pas dans le plaisir sensuel. Pourquoi cela? Parce que le
 disciple bien instruit des nobles personnes discerne qu’il y a moyen d’échapper
 à la sensation de douleur à côté du plaisir sensuel. Comme il ne se complait
 pas dans le plaisir des sens, il n’est obsédé d’aucune passion-obsession par
 rapport à la sensation de plaisir. Il discerne, telle qu’elle est réellement
 présente, l’origine, l’extinction, l’allure, le contrecoup et l’échappée à
 cette sensation.. Comme il discerne l’origine, l’extinction, l’allure, le
 contrecoup et l’échappée à cette sensation, aucune ignorance-obsession en
 rapport à cette sensation de ni-plaisir-ni-douleur ne l’obsède.
 “Ressentant du plaisir, il s’en sent disjoint.Ressentant de la douleur, il s’en sent disjoint. Ressentant une sensation de
 ni-plaisir-ni-douleur, il s’en sent disjoint? C’est ce qu’on appelle un
 disciple bien instruit des nobles personnes disjoint de la naissance, de la
 vieillesse et de la mort; des chagrins, des lamentations, des douleurs, des
 détresses et des désespoirs. Il est disjoint, vous dis-je, de la souffrance et
 de l’angoisse.
 C’est là la différence, c’est là la disctinction,c’est là le facteur de distinction entre les disciples bien instruits des
 nobles personnes et les personnes ordinaires sans instruction.”
 Ceux qui ontdu discernement, qui sont instruits
 Ne ressentent pas une sensation (mentale) de plaisir ou de douleur:
 C’est là la différence de capacités
 Entre un sage et une personne ordinaire.
 Pour unepersonne instruite
 Qui a sondé le Dhamma
 Voyant clairement ce monde et l’autre,
 Les choses désirables ne charment pas l’esprit,
 Et les désirables ne causent aucune résistance.
 Sonacceptation
 et son rejet sont éparpillés,
 Allés à leur fin,
 Ils n’existent pas.
 Connaissantl’état sans poussière et sans chagrin,
 Il discerne correctement
 Il est allé, au-delà du devenir,
 Jusqu’à l’autre rive.
 IV- Bản Việt dịch từ tiếngPa-li của HT Thích Minh Châu (1980)
 Kinh Với Mũi Tên http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_5-50_6-2_17-83_14-1_15-1_4-505/kinh-tuong-ung-bo-samyutta-nikaya.html …—Này các Tỳ-kheo, kẻ vô vănphàm phu, cảm thọcảm giáclạc thọ, cảm thọcảm giáckhổ thọ, cảm thọcảm giác bất khổ bất lạc thọ. Này các Tỳ-kheo, bậc Đa văn Thánh đệ tử cũng cảm thọcảm giáclạc thọ, cảm thọcảm giáckhổ thọ, cảm thọcảm giác bất khổ bất lạcthọ.
 Ở đây, này các Tỳ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào làthù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Đa văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm
 phu?
 —Bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản … —Này các Tỳ-kheo, kẻ vô vănphàm phu khi cảm xúckhổthọ, sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh. Vị ấy cảm giác
 hai cảm thọ, cảm thọ về thân và cảm thọ về tâm.
 Ví như, này các Tỳ-kheo, có người bị người ta bắn vớimũi tên, rồi họ bắn người ấy với mũi tên thứ hai. Như vậy, này các Tỳ-kheo,
 người ấy cảm giáccảm thọ cả hai mũi tên. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, kẻ vô vănphàm phu khi cảm xúckhổ thọ; thời sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi
 đến bất tỉnh. Người ấy cảm giác hai cảm thọ, cảm thọ về thân và cảm thọ về tâm.
 Cảm xúc bởi khổ thọ ấy, người ấy cảm thấysân hận (patigha). Do cảm thấysân
 hận đối với khổ thọ ấy, sân tùy miên đối với khổ thọ được tồn chỉ tùy miên
 (anuseti). Cảm xúc bởi khổ thọ, người ấy hoan hỷdục lạc. Vì sao? Vì rằng, này các
 Tỳ-kheo, kẻ vô vănphàm phu không tìm thấy một sự xuất lykhổ thọ nào khác,
 ngoài dục lạc. Do hoan hỷdục lạc ấy, tham tùy miên đối với lạc thọtồn tại.
 Người ấy không như thật rõ biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy
 hiểm và sự xuất ly của các cảm thọ ấy. Do người ấy không như thật rõ biết sự
 tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các cảm thọ ấy,
 nên vô minhtùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ tồn tại. Nếu người ấy cảm thọcảm giáclạc thọ, người ấy cảm thọcảm giác như người bị trói buộc (sannutto).
 Nếu người ấy cảm thọcảm giáckhổ thọ, người ấy cảm thọcảm giác như người bị
 trói buộc. Nếu người ấy cảm thọcảm giác bất khổ bất lạc thọ, người ấy cảm thọcảm giác như người bị trói buộc. Này các Tỳ-kheo, đây gọi là kẻ vô vănphàm phu
 bị trói buộc bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng người ấy
 bị trói buộc bởi đau khổ.
 Và này các Tỳ-kheo, bậc Đa văn Thánh đệ tử khi cảm xúckhổ thọ thời không có sầu muộn, không có than vãn, không có khóc lóc, không cóđấm ngực, không có đi đến bất tỉnh. Vị ấy chỉ cảm thọcảm giác một cảm thọ, tức
 là cảm thọ về thân, không phải cảm thọ về tâm.
 Ví như, này các Tỳ-kheo, có người bị người ta bắn mộtmũi tên. Họ không bắn tiếp người ấy với mũi tên thứ hai. Như vậy, này các Tỳ-kheo,
 người ấy cảm giáccảm thọ của một mũi tên. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, bậc Đa
 văn Thánh đệ tử khi cảm xúckhổ thọ; vị ấy không sầu muộn, không than vãn,
 không khóc lóc, không đấm ngực, không đi đến bất tỉnh. Vị ấy cảm giác chỉ một
 cảm thọ, cảm thọ về thân, không phải cảm thọ về tâm. Vị ấy không cảm thấysân
 hận đối với khổ thọ ấy. Do không cảm thấysân hận đối với khổ thọ ấy, sân tùy
 miên đối với khổ thọ không có tồn tại. Cảm xúc bởi khổ thọ, vị ấy không hoan hỷdục lạc. Vì sao? Vì bậc Đa văn Thánh đệ tử có tuệ tri một sự xuất ly khác đối
 với khổ thọ, ngoài dục lạc. Vì vị ấy không hoan hỷdục lạc, tham tùy miên đối
 với dục lạc không có tồn tại. Vị ấy như thậttuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt,
 vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của những cảm thọ ấy. Vì rằng, vị ấy như
 thậttuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của
 các cảm thọ ấy. Vì rằng, vị ấy như thậttuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị
 ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các cảm thọ ấy, đối với bất khổ bất lạc
 thọ, vô minhtùy miên không có tồn tại. Nếu vị ấy cảm thọlạc thọ, vị ấy cảm thọlạc thọ như người không bị trói buộc. Nếu vị ấy cảm thọcảm giáckhổ thọ, vị ấy
 cảm thọcảm giác như người không bị trói buộc. Nếu vị ấy cảm thọcảm giác bất
 khổ bất lạc thọ, vị ấy cảm thọcảm giác như người không bị trói buộc. Này các Tỳ-kheo,
 đây gọi là Tỳ-kheo không bị trói buộc bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu,
 ão. Ta nói rằng vị ấy không bị trói buộc bởi đau khổ.
 Này các Tỳ-kheo, đây là sự đặc thù, đây là thù thắng,đây là sự sai biệt giữa bậc Đa văn Thánh đệ tử và kẻ vô vănphàm phu.
 Bậc Trí tuệĐa văn,Lạc khổ khôngchi phối,
 Giữa kẻ trí, phàm phu,
 Thiện sai biệt rất lớn.
 Bậc Đa văn,Tầm pháp,
 Thấy đời này, đời sau,
 Ái pháp không phá tâm,
 Không ái, không sân hận.
 Tùy thuận hay đối nghịch,Tiêu tán, diệt, không còn,
 Vị ấy biết con đường,
 Đường không cấu, không sầu,
 Chánh trí, đoạn tái sanh,
 Đến được bờ giác ngộ.
 |