| Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớnKinh Sakalika Sutta SN 3.18 – SN 4.13
 (Bài Kinh Về Mảnh Đá: Tương Ưng Bộ Kinh 3.18 và 4.13)
 Hoang Phong chuyển ngữ
 
   Bài dưới đây là một trong loạt những bài thuộc chủ đề “Quan điểm của Phật Giáo đối với
 sự đau đớn và bệnh tật”. Các bài trước đây là:
  – Đức Phật thuyết giảng về sự đau đớn (Sallatha Sutta/Kinh về Mũi Tên/SN 36.6)– Thái độ của người Phật Giáo đối với sự đau đớn(Ajahn Brahmavamso Mahathera)
 – Cái chết là một thứ bệnh ung thư(Ajahn Liem)
 – Y khoa cũng chỉ là phép luyện đan ( Khyentsé Rinpoché)
 – Không nên trì hoãn sang ngày hôm sau (Eihei Dogen)
  Dườngnhư trong Kinh Tạngít nhất có hai lần nhắc đến trường hợpĐức Phật từng cảm
 nhận các giác cảm đau đớn. Lần thứ nhất khi Ngài bị ám hại và một mảnh đá đã đâm
 vào chân khiến Ngài bị thương, và lần thứ hai khi Ngài bị trúng thực trước khi
 tịch diệt.
  Trườnghợp thứ nhất xảy ra khi Đức Phật cũng đã trọng tuổi. Lúc bấy giờ trong tăng đoàn
 có một người tên là Bồ-đề Đạt-đa (Devadatta) em họ của Đức Phật, bất đồng chính
 kiến với Ngài về một số giới luật. Đề-bà Đạt-đa yêu cầuĐức Phật phải ban hành
 các giới luật thật khắt khe đối với các người xuất gia: chẳng hạn như không được
 ngủ trong nhà (phải ngủ dưới gốc cây hay trong các túp lều che bằng lá cây rừng),
 không được nhận ăn khi có người mời (chỉ ăn những gì trong bình bát do chính mình
 khất thực), phải ăn toàn rau trái (không được ăn thịt cá), phải sống di động
 (không được sống bám vào một nơi cố định)… Đức Phật không hoàn toànchấp thuận
 và đưa ra một giải phápdung hòa hơn bằng cách chỉ chấp nhận cho tăng đoàntuân
 thủ các điều luật ấy trong một số hoàn cảnhnhất định nào đó với mục đích tránh
 mọi hình thứccực đoan. Vào thời kỳ này tăng đoàn cũng đã lớn mạnh, nhiều nhóm bắt
 đầu sống trà trộn với sự sinh hoạtthế tục và bám vào những nơi đông dân cư, và
 do đó đã đánh mất đi ít nhiều truyền thống cũng như nguyên tắc của người tu hành
 là phải xa lìathế tục. Trước tình trạng đó, Đề-bà Đạt-đa đã thuyết phục được một
 số tỳ kheo theo về với mình và lập ra một tăng đoàn riêng. Sự chia rẽ này có thể
 đã đưa dần đến các âm mưuám hạiĐức Phật.
  LuậtTạng (Vinaya, tiểu phẩmCullavagga
 VII, 3.9) có thuật lại câu chuyện về Đề-bà Đạt-đa đã lăn một tảng đá lớn từ trên
 dốc cao xuống phía Đức Phật và các đệ tử của Ngài ở bên dưới. Tảng đá lăn trệch
 sang một bên không trúng vào Đức Phật, thế nhưng cũng có một mảnh đá vỡ đâm vào
 chân khiến Ngài bị thương. Trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya) có hai bài
 kinh nhắc đến sự kiện này và cả hai đều mang cùng một tựa như nhau là: Bài Kinh Về Mảnh Đá (Nakalika Suttta, SN 3.18 và SN 4.31). Dưới
 đây là bản chuyển ngữ của cả hai bài kinh trên đây và sau đó người dịch cũng sẽ
 xin mạn phép góp thêm vài lời ghi chú với mục đích cùng với người đọc suy tư và
 tìm hiểu thêm về hai bài kinh này.
   1-BàiKinh Về Mảnh Đá
 (Sakalika Sutta SN 1.38) (PTS: S i27, CDB i 116)
   Tôi từngđược nghe như vầy:
 Một lầnĐấngThế Tôn ngụ gần thành Vương Xá (Rajagaha) (xin lưy
 ý là Đức Phật luôn xa lánh các nơi đô thị, làng mạc cũng như các nơi sinh hoạt
 đông đúc, Ngài chỉ đi vào các nơi này để khất thực) tại khu vườn hươu
 Maddakucchi. Vào lúc bấy
 giờ Đấng Thế Tôn bị một mảnh đá đâm vào chân. Các giác cảm đau đớncực độ trên
 thân xác xảy đến với Ngài – đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi,
 bực bội – thế nhưng Ngài đã chịu đựng các sự đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác(tỉnh thức/chánh
 niệm), minh mẫn(sampajeno/tinh tường), không một chút xao động. Ngài gấp mảnh
 y thượng làm tư để gối đầu(shanghati/còn gọi là tăng-già-lê, một loại áo ấm khoác bên
 ngoài)và nằm nghiêng về bên phải, uy nghi trong tư thế của một con
 sư tử, chân này gác lên chân kia, thật tỉnh giác và minh mẫn.
 Bảy trăm nàng tiên (devata/nữ thiênnhân) trong đoàn Satullapa tỏa ánh hào quang chiếu sáng suốt đêm cả
 khu vườn hươu Maddhakucchi, họ đến gầnĐức Phật vái chào và đứng sang một bên.
 Sau khi đứng sang một bên và trướcmặtĐấng Thế Tôn, một nàng tiên thốt lên như sau: “Ngài Cồ-đàm trầm tư
 chẳng khác gì một con long xà (naga)! Mỗi khi các giác cảm đau đớnhiện lên –
 đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi, bực bội – thì tương tự như một
 con long xà, Ngài chịu đựng một cách thật tỉnh giác, minh mẫn, không một chút
 xao động!”
 Một nàng tiên khác, trước mặtĐấngThế Tôn lại thốt lên: “Ngài Cồ-đàm trầm tư chẳng khác gì một con sư tử!
 Mỗi khi các giác cảm đau đớnhiện lên – đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu,
 mệt mỏi, bực bội – thì tương tự như một con sư tử, Ngài chịu đựng các sự đau
 đớn ấy một cách thật tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động!”
 Một nàng tiên khác, trước mặtĐấngThế Tôn lại thốt lên: “Ngài Cồ-đàm trầm tư chẳng khác gì một ngựa giống!
 Mỗi khi các giác cảm đau đớnhiện lên – đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu,
 mệt mỏi, bực bội – thì tương tự như một con ngựa giống, Ngài chịu đựng các sự
 đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động!”
 Một nàng tiên khác, trước mặtĐấngThế Tôn lại thốt lên: “Ngài Cồ-đàm trầm tư chẳng khác gì một con bò mộng vô
 song(đầu đàn)!
 Mỗi khi các giác cảm đau đớnhiện lên – đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu,
 mệt mỏi, bực bội – thì tương tự như một
 con bò mộng vô song, Ngài chịu đựng các sự đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác,
 minh mẫn, không một chút xao động!”
 Một nàng tiên khác, trước mặtĐấngThế Tôn lại thốt lên: “Ngài Cồ-đàm trầm tư chẳng khác gì một người khuân
 vác khoẻ mạnh! Mỗi khi
 các giác cảm đau đớnhiện lên – đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt
 mỏi, bực bội – thì tương tự như một người khuân vác khoẻ mạnh, Ngài chịu đựng
 các sự đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao
 động!”
 Một nàng tiên khác, trước mặtĐấngThế Tôn lại thốt lên: “Ngài Cồ-đàm trầm tư chẳng khác gì một người đã
 thuần thục! Mỗi khi
 các giác cảm đau đớnhiện lên – đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt
 mỏi, bực bội – thì tương tự như một người đã thuần thục, Ngài chịu đựng các sự
 đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động!”
 Một nàng tiên khác, trước mặtĐấngThế Tôn lại thốt lên: “Hãy trông kìa, một tâm thần tập trung cao độ, một
 tâm thứcbuông xảtuyệt vời – không kìềm tỏa cũng không gượng ép. Trong tâm
 thức đó không một sự chuyển động tâm thần nào bị trấn áp hay đè nén. Bất cứ ai
 nếu không trông thấy được một vị tương tự như long xà, như sư tử, như ngựa
 giống, như bò mộng vô song, như một người khuân vác khoẻ mạnh, một con ngườithuần thục, thì phải chăng đó là một kẻ đáng bị trừng phạt, nếu không muốn nói
 là một kẻ đui mù?”
 Kệ: Các vị Bà-la-môn dù có học thuộc cả năm bộ kinh Vệ-đà,Dù có tuân thủ một trăm năm khổ hạnh:
 Thì tâm thức họ cũng không sao đạt đượcsự giải thoát đích thật.
 Thấp kém từ bản chất, họ nào đạt đến bến bờ bên kia.
 Vướng mắc trong tham lam,Chỉ biết tuân thủgiới luật và thực thi nghi lễ,[Dù có]sống một trăm năm khổ hạnh:
 Thì tâm thức họ cũng sẽ chẳng bao giờ đạt đượcsự giải thoát đích thật.
 Thấp kém từ bản chất, họ nào đạt đến bến bờ bên kia.
 Này những kẻ ngạo mạn, không kiềm chế được mình,Hỡi những ai xao lãng, chìm đắm trong vô minh,
 Dù có chọn nơi hoang dã, sống cuộc sống không lo nghĩ,
 Thì cũng chẳng bao giờ vượt thoát được lãnh địa của Ma Vương (Mara)
 Thế nhưng nếu biết từ bỏ sự ngạo mạn, tập trung vào nội tâm mình,Thực hiện được một tâm linhtỉnh thức trong bất cứ một cảnh huống nào:
 Thì khi đó nếu chọn chốn hoang vu, sống cuộc sống không lo nghĩ,
 Tất sẽ vượt thoát khỏi lãnh địa của Ma Vương.
   2-Bài Kinh về mảnh đá (Sakalika SuttaSN 4.13) (PTS: S i110, CDB i 203)
 Tôi từng được nghe như vầy: Có mộtlầnĐấng Thế Tôn ngụ gần thành Vương Xá (Rajagaha). Vào lúc bấy giờ Ngài bị một
 mảnh đá đâm vào chân. Các giác cảm đau đớncực độ trên thân xác xảy đến với Ngài
 – đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó
 chịu, mệt mỏi, bực bội – thế nhưng Ngài đã chịu đựng các sự đau đớn ấy một cách
 thật tỉnh giác, minh mẫn (sampajano),
 không một chút xao động. Ngài gấp mảnh y thượng làm tư để gối đầu và nằm
 nghiêng về bên phải, uy nghi trong tư thế của một con sư tử, chân này gác lên
 chân kia, thật tỉnh giác và tinh tường.
 Tên Hung Ác Ma Vương tìm đến bênĐấng Thế Tôn và xướng lên tiết thơ sau đây:
 Ngài nằm đấy mơ màng, hay ngây ngất một vần thơ? [Đức Phậtđáp lại:]Mục đích đời mình phải chăng đã tiêu tan hết?
 Cô đơn trong túp lều hẻo lánh,
 Ngài ngủ vùi, sầu bi trên gương mặt?
 Ta nằm đây, không bàng hoàng,Cũng chẳng ngây ngất một vần thơ!
 Mục đích ta đã đạt, chẳng một chút sầu bi,
 Thanh thảnmột mình ta trong túp lều trống vắng,
 Thương chúng sinh, từ bi ăm ắp đáy lòng ta!
 Kìa những kẻ mũi tên đâm vào ngực,Tim đập dồn run lên trong hoảng hốt,
 Nhưng vẫn cứ ngủ say, với mũi tên cắm trong tim.
 Tại sao ta lại không ngủ được,
 Khi tim ta, mũi tên kia không còn nữa?
 Ta nằm nghỉ, nào có phải vì kinh hoàngđánh thức,
 Lòng thanh thản, nào đâu kinh sợ một giấc nồng!
 Ngày hay đêm lòng ta nào vướng bận,
 Thế gian này, không một chút suy vong (không yếm thế khi nhìn vào thế gian).
 Ta nằm đây thanh thản một giấc nồng.
 Thương chúng sinh, từ bi ăm ắp đáy lòng ta!
 Tên Hung Ác MaVương thất vọng và chán nản khi nhận thấy: “Thế Tôn nào có lạ gì ta, Đấng
 Toàn Năng quả có lạ gì ta nữa”,
 và tức thời biến mất.
   Vài lời ghi chú của người dịch 
  Mộthình tướng cấu hợp của một cá thể luôn bị chi phối bởi quy luật tương liên và tương
 tác giữa mọi hiện tượng (pratityasamutpada).
 Trong lãnh vựctâm thần thì sự tương liên đó vận hànhdựa vào sự “tiếp
 xúc” (phassa) giữa sáu giác quan
 (ngũ giác và tâm thần) với ngoại cảnh. Sự “tiếp xúc” đó sẽ đưa đến các
 giác cảm trên thân xác và xúc cảm trong tâm thần của cá thể ấy, qua các thể dạng
 thích thú, đau đớn hay trung hòa.
  Dùlà một vị a-la-hán, một vị bồ-tát hay một vị Phật, thì khi nào vẫn còn mang hình
 tướng cấu hợp thì cũng sẽ vẫn còn cảm nhận được các giác cảm trên thân xác, thế
 nhưng trong tâm thức họ thì không có một xúc cảm nào hiện ra. Trong cả hai bài
 kinh trên đây đều cho thấy Đức Phật dù bị thương nhưng không hề phát lộ một sự
 xao động hay đau đớn nào. Sự “tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động”
 của Ngài nói lên một sự tập trung tâm thần cao độ và phản ảnh một tâm thứcbuông xảtuyệt vời. Trong sự thanh thản đó không có một “thoáng xúc cảm nào
 bị kiềm tỏa hay mang tính cách gượng ép, không có một sự chuyển động tâm thần
 nào bị trấn áp hay dồn nén”. Đấy chính là sự yên lặng của một vị Phật: một
 sự yên lặng tuyệt đối, từ thân xác đến ngôn từ và cả trong tâm thức, tương tự
 như mặt đại đương mênh mông và phẳng lặng, không một gợn sóng lăn tăn cũng không
 một luồng nước ngầm trong đáy nước.
  Haibài kinh trên đây – tuy vẫn được gọi là kinh – thế nhưng không phải là những
 lời thuyết giảng của Đức Phật, mà thật ra chỉ là những sự diễn đạt của các đệ
 tử về sự buông xả và yên lặng bao la đó của Vị Thầy mình, nhằm để gửi gấm cho
 chúng ta hôm nay.
  Quabài kinh thứ nhất (SN 3.18) họ tạo ra một quang cảnh thật thiêng liêng khi trông
 thấy cảnh tượng Vị Thầy mình bị thương và nằm nghỉ đêm dưới một mái lều lợp lá giữa
 khu vườn hươu Maddhakucchi. Bảy trăm nàng tiên hiện ra đứng hầu chung quanh mái
 lều, hào quang của họ tỏa sáng cả khu vườn cho đến sáng. Chữ “nàng tiên”
 trong bản dịch là do chữ devadata mà
 ra. Trong tiếng Phạn, chữ deva có nghĩa
 là “nam thiên nhân”, chữ devadata có nghĩa là “nữ thiên nhân“, nếu căn cứ vàoý nghĩa trong kinh sách thì đấy là chư
 thiêntái sinh qua con đường cao cả nhất của sáu nẻo luân hồi (lục đạo/sadjagati), tức có nghĩa là các chúng
 sinhtinh khiết nhất sống trong cõi vô sắc giới (arupa dhatu). Dịch chữ devadata
 là nàng tiênđồng thời cũng là cách dựa
 vào nền văn hóaquen thuộc của một số nước Á Châu. Trong các bản dịch sang các ngôn
 ngữTây Phương đã được tham khảo, thì chữ devadata
 được các dịch giả (Thanissaro Bikkhu, Bhikkhu Bodi, Michel Proulx,v.v…) giữ
 nguyên không dịch, bởi vì dường như là họ không tìm được một từ nào tương đương
 trong các ngôn ngữ “xa lạ” của họ (xem phu lục, và cũng xin nhắc thêm
 là Thanissaro Bikkhu và Bhikkhu Bodhi là hai nhà sư Theravada người Mỹ, và
 Michel Proulx là thiền sư người Pháp). Thậm chí có một bản dịch tiếng Pháp còn cho
 rằng chữ devadata thuộc “giống đực”
 tức là một nam thiên nhân (!). Trong
 bản dịch tiếng Việt của Hòa Thượng Thích Minh Châu thì chữ này được dịch là “quần
 tiên” trong trường hợp gọi chung, và “vị Thiên” trong trường hợp
 chỉ từng người (xem phụ lục).
  Trởlại với bảy trăm nàng tiên đứng hầu Đức Phật suốt đêm thì chúng ta tất sẽ nhận
 thấy một chi tiết sau đây: thông thường trong các bài kinh ghi lại những lời
 thuyết giảng của Đức Phật thì các đệ tử tiến đến gần Ngài để vái chào, sau đó lùi
 lại và ngồi sang một bên. Trong bài kinh trên đây thì bảy trăm nàng tiên lùi lại
 và đứng sang một bên, họ không ngồi xuống như thường lệ mà đứng hầu suốt đêm và
 tỏa ánh hào quang sáng rực cả khu vườn.
  Thậtra cách nay hơn hai mươi lăm thế kỷ, các khu vườn thời bấy giờ không phải là các
 công viên như ngày nay, mà thật ra chỉ là những khu rừng thưa có nhiều hươu nai
 sinh sống, chẳng hạn như khu vườn Maddakucchi trong hai bài kinh trên đây. Đức
 Phật xếp chiếc áo khoác ngoài làm tư để gối đầu và nằm xuống đất, chân này gác
 lên chân kia, dưới mái che của một chiếc lều không vách. Bảy trăm nàng tiên túc
 trực chung quanh. Rải rác trong khu vườn giữa đêm khuya còn có hàng ngàn đệ tử
 của Đức Phật cũng đang nằm mơ màng.
  Bảytrăm quần tiên túc trực hướng nhìn vào sự tỉnh giác, minh mẫn, không một mảy
 mayxao động của Đức Phật mà hết lòngthán phục. Họ không so sánhĐức Phật với
 một con long xà (naga/một loại rắn thần mà trước đây đã từng che chở cho Đức Phật
 đang ngồi thiền sau khi đạt đượcgiác ngộ, giữa một cơn giông bão thật khủng khiếp
 đang trổi dậy), một con sư tử, một con ngựa giống, một con bò mộng, một người
 khuân vác, một con ngườithuần thục, mà đúng hơn là họ so sánh Ngài với đức tính
 của các con vật ấy cũng như của một người nhẫn nại và một người đã quen chịu đựng
 (sự yên lặng của con long xà, sự uy nghi của con sư tử, sự linh hoạt của một
 con ngựa giống, sức khoẻ của một con bò mộng, sự nhẫn nại của một người khuân vác,
 sức chịu đựng của một người thuần thục).
  Nếubài kinh thứ nhất nêu lên một quang cảnhthiêng liêng và những phẩm tính của Đức
 Phật thì trong bài kinh thứ hai một hung thần xuất hiện để phá khuấy Ngài trong
 đêm. Hung thần ấy chính là Ma Vương (Mara) hay Thần Chết, biểu trưng cho vô
 minh, tham lam và bám víu, đã hiện ra để nhạo báng và khinh miệt Ngài. Thế nhưng
 Đức Phật đã cho Ma Vương biết rằng thái độ của Ngài đối với sự đau đớn trên thân
 xác chỉ là sự thanh thản, an vui, không kinh sợ, cũng chẳng bàng hoàng. Ma Vươngchấp nhận sự thất bại của mình và biến mất khỏi tâm thức Ngài.
  Trongcả hai bài kinh có một chữ rất khó dịch, đó là chữ Pa-li sampajano. Bản tiếng Anh của Thanissaro Bikkhu dịch chữ này là alert (tỉnh táo), bản tiếng Anh của Bhikkhu Bodhi dịch là clearly comprehending (hiểu biếtminh bạch), bản tiếng Pháp của
 Remy Zins dịch là vigilance (cảnh giác), bản tiếng Việt của Hòa Thượng
 Thích Minh Châu thì dịch là nhẫn chịu (?),
 riêng chỉ có bản tiếng Pháp của thiền sư Michel Proulx thì tỏ racẩn thận hơn cả,
 chẳng qua vì dịch giả này đã giữ nguyên chữ Pa-li sampajano và không dịch (xem phụ lục).
  Chữsampajano là một tĩnh từ, danh từ là sampajanna (tiếng Phạn là samprajanya). Trong chữ sampajanna có chữ janna là một chữ rất quen thuộc có nghĩa là trí tuệ. Chữ sampajano trên
 phương diện tổng quát có nghĩa là hiểu
 biếtminh bạch, chính xác và tinh tường. Trong bài chuyển ngữ trên đây xin được
 tạm dịch chữ này là minh mẫn. Chữ sampajano cũng thấy xuất hiện trong nhiều
 bài kinh khác do Đức Phậtthuyết giảng, đặc biệt nhất là trong Bài Kinh Về Sự Tỉnh Giác (Sata Sutta/Kinh về Tâm LinhTỉnh Thức hay Chánh Niệm…, SN 47.35) chữ này được
 hiểu như là sự quán nhận minh bạch, tinh tường và cảnh giác về vô thường)
  Sởdĩ mạn phép dài dòng như trên đây là chỉ nhằm lưu ý người đọc rằng nếu muốn hiểu
 được một bài kinh, thì phải đặt bài kinh ấy vào bối cảnh của nó, tức là vào khung
 cảnh lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ và tư tưởng của những người sống trong thung lũng
 sông Hằng cách nay hai mươi lăm thế kỷ. Đối với các kinh sách xuất hiện muộn –
 tức là các kinh sách Đại Thừa – cũng vậy, cũng cần phải hiểu theo từng thời đại
 và từng địa phương (chẳng hạn như các kinh sách đại thừaẤn Độ của Long Thụ, Vô
 Trước, Thế Thân… vào các thế kỷ thứ II-IV; các kinh sách đại thừa và các bản
 dịch của Trung Quốc vào các thế kỷ thứ II-VII; các kinh Kim Cương Thừa trước tác
 vào các thế kỷ thứ VIII-X, v.v…)
  Cáctác phẩm của các dịch giả Trung Quốcnhư Pháp Hiển (thế kỷ thứ IV), Cưu-ma
 La-thập (thế kỷ IV-V), Huyền Trang (thế kỷ thứ VII)…và của các nhà sưhiện đại
 như Bhikkhu Bodhi, Thanassaro Bodhi, Michel Proulx, Thích Minh Châu… cũng chỉ
 là những nổ lực giúp chúng tatìm hiểu những gì tinh túy trong các bài kinh đã
 được học thuộc và lưu truyền từ hơn hai mươi lăm thế kỷ trước. Nêu lên sự kiện
 này là nhằm nhắc nhở chúng ta phải cẩn thận và lưu ý đến các hình thứcbiến dạng
 của kinh sách có thể xảy ra xuyên quangôn từ, văn hóa, thời đại và địa phương,
 cũng như các ảnh hưởng phát sinh từ xúc cảm, quan điểm và khuynh hướng cá nhân
 của các người dịch.
  Dođó các bài kệ trong hai bài kinh trên đây cũng có thể được hiểu như là những nỗ
 lực của những thế hệ người xưa nhằm truyền đạt và tồn lưu tư tưởng của Đấng Thế
 Tôn, có nghĩa là phản ảnh ít nhiều tính cáchdiễn đạt và cách tường thuật của họ.
 Tư Tưởng và Trí Tuệ của Đức Phật vượt lên trên các bài kệ – tức là các cách diễn
 đạt và tường thuật ấy – rất nhiều và rất xa. Hai bài kinh trên đây cũng thế, cũng
 chỉ là một sự cố gắng, một nỗ lực nhằm nói lên sự “yên lặng mênh mông”
 trong tâm thức của Đức Phật và sự “thanh thản vô biên” tỏa ra từ toàn
 thân Ngài trước sự đau đớn mang lại từ thân xác cấu hợp và vô thường của Ngài.
  Nhiềunăm sau sự kiện trên đây thì một lần nữa Đức Phật phải chịu thêm một sự đau đớncuối cùng khi bị trúng thực sau một bữa ăn. Trong lần đau đớncuối cùng này thì
 Ngài cũng không hề thốt lên một lời than vãn nào mà chỉ nói với các đệ tử đang
 ngồi chung quanh những lời dặn dò cuối cùng thật trong sáng, chân tình và thiết
 tha (người đọc có thể xem thêm bài viết “Những
 lời cuối cùng của Đức Phật” trên Thư Viện Hoa Sen).
  Sauhết là phần phụ lục dưới đây sẽ trích dẫn các bản gốc bằng tiếng Pa-li và các bản
 Việt dịch của H.T. Thích Minh Châu về hai bài kinh trên đây. Ngoài ra một bản dịch
 tiếng Anh và một bản dịch tiếng Pháp của mỗi bài kinh cũng sẽ được chọn để kèm theo,
 hầu giúp người đọc tham khảo thêm nếu cần.
   Bures-Sur-Yvette,28.04.14
 Hoang Phongchuyển ngữ   PHỤ LỤC A- KinhSakalika  Sutta SN 1.38 1- Bản gốc tiếng Pa-li Evaṃme sutaṃ—
 ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati maddakucchismiṃ migadāye. Tena
 kho pana samayena bhagavato pādo sakalikāya khato hoti. Bhusā sudaṃ bhagavato
 vedanā vattanti sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā; tā
 sudaṃ bhagavā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno. Atha kho bhagavā
 catugguṇaṃ saṅghāṭiṃ paññāpetvā dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ kappeti pāde
 pādaṃ accādhāya sato sampajāno.
 Atha kho sattasatāsatullapakāyikā devatāyo abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ
 maddakucchiṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ
 abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho ekā devatā bhagavato
 santike imaṃ udānaṃ udānesi: “nāgo vata, bho, samaṇo gotamo; nāgavatā ca
 samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato
 sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.
 Atha kho aparā devatābhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “sīho vata, bho, samaṇo gotamo;
 sīhavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā
 sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.
 Atha kho aparā devatābhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “ājānīyo vata, bho, samaṇo gotamo;
 ājānīyavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā
 amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.
 Atha kho aparā devatābhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “nisabho vata, bho, samaṇo gotamo;
 nisabhavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā
 amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.
 Atha kho aparā devatābhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “dhorayho vata, bho, samaṇo
 gotamo; dhorayhavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā
 asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.
 Atha kho aparā devatābhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “danto vata, bho, samaṇo gotamo;
 dantavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā
 sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.
 Atha kho aparā devatābhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “passa samādhiṃ subhāvitaṃ
 cittañca suvimuttaṃ, na cābhinataṃ na cāpanataṃ na ca sasaṅkhāraniggayhavāritagataṃ.
 Yo evarūpaṃ purisanāgaṃ purisasīhaṃ purisaājānīyaṃ purisanisabhaṃ
 purisadhorayhaṃ purisadantaṃ atikkamitabbaṃ maññeyya kimaññatra adassanā”ti.
 “Pañcavedā sataṃ samaṃ,Tapassī brāhmaṇā caraṃ;
 Cittañca nesaṃ na sammā vimuttaṃ,
 Hīnattharūpā na pāraṅgamā te.
 Taṇhādhipannā vatasīlabaddhā,Lūkhaṃ tapaṃ vassasataṃ carantā;
 Cittañca nesaṃ na sammā vimuttaṃ,
 Hīnattharūpā na pāraṅgamā te.
 Namānakāmassa damo idhatthi,
 Na monamatthi asamāhitassa;
 Eko araññe viharaṃ pamatto,
 Na maccudheyyassa tareyya pāran”ti.
 “Mānaṃ pahāyasusamāhitatto,
 Sucetaso sabbadhi vippamutto;
 Eko araññe viharamappamatto,
 Sa maccudheyyassa tareyya pāran”ti.
   2- Bản Việt dịch củaH.T. Thích Minh Châu
 Kinh Miếng Đá Vụn Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Rājagaha(Vương Xá), tại vườn Nai (Maddakucchi)
 Lúc bấy giờ, chân Thế Tôn bị miếng đábể đâm phải. Cảm thọThế Tôn mãnh liệt. Thân cảm thọ khổ đau, nhói đau, nhức
 nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú. Nhưng Thế Tônchánh niệmtỉnh giác, nhẫn chịu, không phiền não.
 Rồi Thế Tôn cho trải áo Sanghàti(Tăng-già-lê) xếp tư lại, nằm xuống phía hông bên phải như dáng điệu con sư tử,
 chân đặt trên chân, chánh niệmtỉnh giác.
 Rồi bảy trăm quần tiênSatullapakàyikà, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắngchói sáng toàn
 vùng Maddakucchi, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễThế Tôn rồi đứng một
 bên.
 Đứng một bên, một vị Thiên đọc lênlời cảm hứng này trước mặtThế Tôn:
 —Sa-môn Gotama thật là bậc Longtượng. Và với tư cáchLong tượng, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, đau khổ,
 nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú, Ngài chánh
 niệmtỉnh giác, nhẫn chịu, không có phiền não.
 Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảmhứng này trước mặtThế Tôn:
 —Sa-môn Gotama thật là bậc Sư tử. Vàvới tư cáchSư tử, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau … không có phiền
 não.
 Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảmhứng này trước mặtThế Tôn:
 —Sa-môn Gotama thật là Lương tuấn mã.Và với tư cách Lương tuấn mã, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau … không
 có phiền não.
 Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảmhứng này trước mặtThế Tôn:
 —Sa-môn Gotama thật là bậc Ngưuvương. Và với tư cáchNgưu vương, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau …
 không có phiền não.
 Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảmhứng này trước mặtThế Tôn:
 —Sa-môn Gotama thật là bậc Nhẫn nạiKiên cường. Và với tư cách bậc Nhẫn nại Kiên cường, Ngài nhẫn chịu thân thọ
 khởi lên, khổ đau … không có phiền não.
 Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảmhứng này trước mặtThế Tôn:
 —Sa-môn Gotama thật là một bậc Khéođiều phục. Và với tư cách là một bậc Khéo điều phục, Ngài nhẫn chịu thân thọ
 khởi lên, khổ đau … không có phiền não.
 Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảmhứng này trước mặtThế Tôn:
 —Hãy xem tâm của Ngài khéo được tutập Thiền định và giải thoát, không có nổi lên, không có chìm xuống, mọi hành
 động được tác thành, không có ai kích thích. Ai có thể nghĩ mình đi ngược lại
 một Long tượng như vậy, một bậc Sư tử như vậy, một bậc Lương tuấn mã như vậy,
 một bậc Ngưu vương như vậy, một bậc Nhẫn nại Kiên cường như vậy, một bậc Nhiếp
 phục như vậy, trừ phi là một người mù.
 Các vị Bà-la-môn,Tinh thông năm Vệ-đà,
 Dầu tu tậpkhổ hạnh,
 Cho đến hàng trăm năm,
 Tâm họ không có thể,
 Chơn chánh được giải thoát.
 Tự tánhquá hạ liệt,
 Không đến bờ bên kia,
 Bị khát áichi phối,
 Bị giới cấmtrói buộc,
 Dầu tu tậpkhổ hạnh,
 Cho đến hàng trăm năm,
 Tâm họ không có thể,
 Chơn chánh được giải thoát.
 Tự tánhquá hạ liệt,
 Không đến bờ bên kia.
 Ở đời không nhiếp phục,
 Kiêu mạn cùng các dục,
 Tâm không được an tịnh,
 Không tu tập Thiền định.
 Ở trong rừng cô độc,
 Nhưng tâm tư phóng dật,
 Vị ấy khó vượt khỏi,
 Sự chinh phụctử thần.
 Nhiếp phục được kiêu mạn,
 Khéo tu tập Thiền định,
 Tâm tư khéo an tịnh,
 Giải thoát được viên mãn,
 Ở trong rừng cô độc,
 Tâm tư không phóng dật,
 Vị ấy khéo vượt khỏi,
 Sự chinh phụctử thần.
   3- Bản dịch tiếng Anh củaThanassaro Bikkhu (1999)
 I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Rajagahaat the Maddakucchi Deer Reserve. Now at that time his foot had been pierced by
 a stone sliver. Excruciating were the bodily feelings that developed within him
 — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — but he endured
 them mindful, alert, & unperturbed. Having had his outer robe folded in
 four and laid out, he lay down on his right side in the lion’s posture, with
 one foot placed on top of the other, mindful & alert.
 Then 700 devatas from the Satullapa retinue, in the far extreme of thenight, their extreme radiance lighting up the entirety of Maddakucchi, went to
 the Blessed One. On arrival, having bowed down to him, they stood to one side.
 As she was standing there, one of the devatas exclaimed in the BlessedOne’s presence: “What a naga is Gotama the contemplative! And like a naga,
 when bodily feelings have arisen — painful, fierce, sharp, wracking, repellent,
 disagreeable — he endures them mindful, alert, & unperturbed!”
 Then another devata exclaimed in the Blessed One’s presence: “What alion is Gotama the contemplative! And like a lion, when bodily feelings have
 arisen — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — he endures
 them mindful, alert, & unperturbed!”
 Then another devata exclaimed in the Blessed One’s presence: “What athoroughbred is Gotama the contemplative! And like a thoroughbred, when bodily
 feelings have arisen — painful, fierce, sharp, wracking, repellent,
 disagreeable — he endures them mindful, alert, & unperturbed!”
 Then another devata exclaimed in the Blessed One’s presence: “What apeerless bull is Gotama the contemplative! And like a peerless bull, when
 bodily feelings have arisen — painful, fierce, sharp, wracking, repellent,
 disagreeable — he endures them mindful, alert, & unperturbed!”
 Then another devata exclaimed in the Blessed One’s presence: “What astrong burden-carrier is Gotama the contemplative! And like a strong
 burden-carrier, when bodily feelings have arisen — painful, fierce, sharp,
 wracking, repellent, disagreeable — he endures them mindful, alert, &
 unperturbed!”
 Then another devata exclaimed in the Blessed One’s presence: “What atamed one is Gotama the contemplative! And like a tamed one, when bodily
 feelings have arisen — painful, fierce, sharp, wracking, repellent,
 disagreeable — he endures them mindful, alert, & unperturbed!”
 Then another devata exclaimed in the Blessed One’s presence: “See aconcentration well-developed, a mind well-released — neither pressed down nor
 forced back, nor with mental fabrication kept blocked or suppressed. Whoever
 would think that such a naga of a man, lion of a man, thoroughbred of a man,
 peerless bull of a man, strong burden-carrier of a man, such a tamed man should
 be violated: what else is that if not blindness?”
 Five-Veda Brahmans, living austerely for 100 years: Their minds are notrightly released. Lowly by nature, they’ve not gone beyond. Overpowered by
 craving, bound up in precepts & practices, performing wretched austerities
 for 100 years: Their minds are not rightly released. Lowly by nature, they’ve
 not gone beyond. For one fond of conceit, there’s no taming; for one
 uncentered, no sagacity. Though alone in the wilderness, if one lives
 heedlessly, one won’t cross over, beyond Mara’s sway. But having abandoned
 conceit, well-centered within, with right awareness everywhere fully released,
 alone in the wilderness, heedfully living, one will cross over, beyond Mara’s
 sway.
   4- Bản dịch tiếng Pháp của Michel Proulx En uneoccasion, le Bhagavā séjournait près
 de Rājagaha, dans le parc aux cerfs de Maddakucchi. En cette occasion, il avait
 eu le pied percé par un éclat de roche. Intolérables étaient les sensations
 corporelles qui se développèrent alors en lui – douloureuses, violentes,
 aiguës, déchirantes, tourmentantes, désagréables – mais il les endurait,
 attentif et sampajāno,
 imperturbable. S’étant fait plier et étendre en quatre sa cape, il était étendu
 sur le côté droit, dans la posture du lion – un pied placé sur l’autre –
 attentif et sampajāno.
 Alors, dansla profondeur de la nuit, 700 devatās de la suite de Satullapa, d’une beauté
 formidable, éclairant de leur radiance la totalité de Maddakucchi, vinrent
 trouver le Bhagavā. En arrivant,
 ils s’inclinèrent devant lui, puis se tinrent d’un côté.
 Alors qu’il se tenait là, l’un des devatās s’exclama en présence du Bhagavā:  – Quel nāga que samana Gotama! Tel un nāga, lorsque lessensations physiques surgissent, douloureuses, violentes, aiguës, exténuantes,
 repoussantes, désagréables, il les endure avec attention, vigilance, et sans en
 être perturbé!
 Alors uneautre divinité s’exclama en présence du Bhagavā:
 – Quel lionque samana Gotama! Tel un
 lion, lorsque les sensations physiques surgissent, douloureuses, violentes,
 aiguës, exténuantes, repoussantes, désagréables, il les endure avec attention,
 vigilance, et sans en être perturbé!
 Alors uneautre divinité s’exclama en présence du Bhagavā:
 – Quelpur-sang que samana Gotama! Tel un
 pur-sang, lorsque les sensations physiques surgissent, douloureuses, violentes,
 aiguës, exténuantes, repoussantes, désagréables, il les endure avec attention,
 vigilance, et sans en être perturbé!
 Alors uneautre divinité s’exclama en présence du Bhagavā:
 – Queltaureau sans pareil que samana Gotama! Tel un
 taureau sans pareil, lorsque les sensations physiques surgissent, douloureuses,
 violentes, aiguës, exténuantes, repoussantes, désagréables, il les endure avec
 attention, vigilance, et sans en être perturbé!
 Alors uneautre divinité s’exclama en présence du Bhagavā:
 – Quel fortportefaix que samana Gotama! Tel un
 fort portefaix, lorsque les sensations physiques surgissent, douloureuses,
 violentes, aiguës, exténuantes, repoussantes, désagréables, il les endure avec
 attention, vigilance, et sans en être perturbé!
 Alors uneautre divinité s’exclama en présence du Bhagavā:
 – Quelapprivoisé que samana Gotama! Et, ainsi
 que quelqu’un qui est apprivoisé, lorsque les sensations physiques surgissent,
 douloureuses, violentes, aiguës, exténuantes, repoussantes, désagréables, il
 les endure avec attention, vigilance, et sans en être perturbé!
 Alors uneautre divinité s’exclama en présence du Bhagavā:
 – Que voilàune concentration bien développée, un esprit bien libéré: ni réprimé ni
 rengorgé, dans lequel les fabrications mentales ne sont ni bloquées, ni
 refoulées. Que quiconque pense qu’un homme qui serait un tel nāga, un tel lion, un
 tel pur-sang, un tel taureau sans pareil, un tel fort portefaix, un tel homme
 apprivoisé puisse devoir être violenté: qu’est-ce d’autre si ce n’est de
 l’aveuglement?
 Même si les brahmanes des Cinq Vedas,Pratiquent des austérités pendant cent ans,
 Leur esprit n’est pas correctement libéré:
 Basses natures n’atteignent pas lointain rivage.
 Ceux-là s’embourbent dans l’appétence,
 Enchaînés aux préceptes et aux pratiques,
 Pratiquant d’âpres austérités pendant cent ans,
 Leur esprit n’est pas correctement libéré:
 Basses natures n’atteignent pas lointain rivage.
 Pour celui qui aime la vanité, pas de maîtrise.Pour celui qui est déconcentré, pas de sagesse.
 Même seul au milieu de la nature, si négligent,
 Il ne peut passer au-delà du royaume de Māra.
 Ayant abandonné la vanité, bien concentré,Avec un noble esprit, partout libéré:
 Seul au milieu de la nature, dilligent,
 Il peut passer au-delà du royaume de Māra.
   Kinh Sakalika Sutta SN 4.13 1 Bản gốc tiếng Pa-li Evaṃ me sutaṃ— ekaṃsamayaṃ bhagavā rājagahe viharati maddakucchismiṃ migadāye. Tena kho pana
 samayena bhagavato pādo sakalikāya khato hoti, bhusā sudaṃ bhagavato vedanā
 vattanti sārīrikā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā. Tā sudaṃ bhagavā
 sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno. Atha kho bhagavā catugguṇaṃ saṅghāṭiṃ
 paññapetvā dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ kappesi pāde pādaṃ accādhāya sato
 sampajāno. Atha kho māro pāpimā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā
 bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:
 “Mandiyā nukho sesi udāhu kāveyyamatto,
 Atthā nu te sampacurā na santi;
 Eko vivitte sayanāsanamhi,
 Niddāmukho kimidaṃ soppase vā”ti.
 “Na mandiyāsayāmi nāpi kāveyyamatto,
 Atthaṃ sameccāhamapetasoko;
 Eko vivitte sayanāsanamhi,
 Sayāmahaṃ sabbabhūtānukampī.
 Yesampisallaṃ urasi paviṭṭhaṃ,
 Muhuṃ muhuṃ hadayaṃ vedhamānaṃ;
 Tepīdha soppaṃ labhare sasallā,
 Tasmā ahaṃ na supe vītasallo.
 Jaggaṃ nasaṅke napi bhemi sottuṃ,
 Rattindivā nānutapanti māmaṃ;
 Hāniṃ na passāmi kuhiñci loke,
 Tasmā supe sabbabhūtānukampī”ti.
 Atha kho māro pāpimā “jānātimaṃ bhagavā, jānāti maṃ sugato”ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.
   2- Bản Việtdịch của H.T. Thích Minh Châu
Kinh PHIẾN ĐÁ1) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tônở Ràjagaha (Vương Xá), tại Maddakucchi, vườn Nai (Migadaya).
 2) Lúc bấy giờ, chân Thế Tôn bị phiến đá gây thương tích. Thế Tôncảm xúc khốc liệt,toàn thânđau đớn, nhói đau, đau nhức mãnh liệt, không thích thú, không vừa ý.
 Và Thế Tônchánh niệmtỉnh giác, nhẫn chịu không để tâm tư buồn nản.
 3) Rồi Ác ma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên bài kệ này với Thế Tôn: Sao Ngài uể oải nằm,Hãy tìm thơ, tìm vận,
 Phải chăng việc sai biệt,
 Không chờ đợi Ngài làm,
 Phải một mìnhcô độc,
 Trên ghế giường nằm ngồi,
 Với gương mặt ngái ngủ,
 Sao Ngài ngủ như vậy?
 (Thế Tôn): Ta không uể oải nằm,Không tìm thơ, tìm vận,
 Mục đích ta đã đạt,
 Đâu có sầu nuộn gì!
 Ta nằm ngồi một mình,
 Trên ghế giường vắng lặng,
 Yên tĩnh ta nằm nghỉ,
 Tâm từ thương chúng sanh.
 Những kẻ ngực bị đâm,
 Hổn hển tim dồn dập,
 Vẫn tìm được giấc ngủ,
 Dầu bị thương tích nặng.
 Sao ta lại không ngủ,
 Khi không bị thương tích,
 Khi thức không âu lo,
 Khi ngủ chẳng sợ hãi,
 Ngày đêm không khởi lên,
 Phiền não bận lòng ta?
 Ta không thấy tai hại,
 Một chỗ nào trên đời,
 Do vậy ta nằm nghỉ,
 Tâm từ thương chúng sanh.
 4) Rồi Ác ma biết được: “Thế Tôn đã biết ta, Thiện Thệ đã biếtta”, buồn khổ, thất vọng liền biến mất tại chỗ ấy.
   3- Bản dịch tiếngAnh của Thanissaro Bikkhu (1999)
 I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Rajagahaat the Maddakucchi Deer Reserve. Now at that time his foot had been pierced by
 a stone sliver. Excruciating were the bodily feelings that developed within him
 — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — but he endured
 them mindful, alert, & unperturbed. Having had his outer robe folded in
 four and laid out, he lay down on his right side in the lion’s posture — with
 one foot placed on top of the other — mindful & alert.
 Then Mara the Evil One went to the Blessed One and recited this verse inhis presence:
 Are you lying there in a stupor, or drunk on poetry?  Are your goals so very few?  All alone in a secluded lodging, what is this dreamer, this sleepy-face? [The Buddha:] I lie here, not in a stupor, nor drunk on poetry. My goal attained, I amsorrow-free. All alone in a secluded lodging, I lie down with sympathy for all
 beings. Even those pierced in the chest with an arrow, their hearts rapidly,
 rapidly beating: even they with their arrows are able to sleep. So why
 shouldn’t I, with my arrow removed? I’m not awake with worry, nor afraid to
 sleep. Days & nights don’t oppress me. I see no threat of decline in any
 world at all. That’s why I sleep with sympathy for all beings.
 Then Mara the Evil One — sad & dejected at realizing, “The BlessedOne knows me; the One Well-Gone knows me” — vanished right there.
 4-Bản dịch tiếng Pháp của Michel Proulx Evaṃ me sutaṃ: En uneoccasion, le Bhagavā séjournait près
 de Rājagaha, dans le parc aux cerfs de Maddakucchi. En cette occasion, il avait
 eu le pied percé par un éclat de roche. Intolérables étaient les sensations
 corporelles qui se développèrent alors en lui – douloureuses, violentes,
 aiguës, déchirantes, tourmentantes, désagréables – mais il les endurait,
 attentif et sampajāno,
 imperturbable. S’étant fait plier et étendre en quatre sa cape, il était étendu
 sur le côté droit, dans la posture du lion – un pied placé sur l’autre –
 attentif et sampajāno.
 Alors Māra le Mauvais alla le trouver et prononçacette strophe en sa présence:
 Reposes-tulà hébété, ou bien enivré de poésie?
 N’as tu pas plus d’objectifs à atteindre?
 Seul dans un logis isolé,
 Pourquoi somnoles-tu avec une tête endormie?
 
[Le Bouddha:]
 Je ne reposeni hébété, ni enivré de poésie.
 Ayant atteint mon objectif, je suis libéré du chagrin.
 Seul dans un logis isolé je repose,
 Rempli de compassion envers tous les êtres.
 Même ceux qui ont une flèche dans la poitrinePerçant leur cœur moment après moment,
 Même eux parviennent à dormir avec leur flèche.
 Alors pourquoi ne pourrais-je pas parvenir à dormir,
 Moi dont la flèche a été retirée?
 Je ne repose pas éveillé par la terreurNi ne suis effrayé par le sommeil.
 Jours et nuits ne m’affectent pas
 Je ne vois pour moi aucune menace de déclin dans le monde.
 C’est pourquoi je peux dormir en paix,
 Rempli de compassion envers tous les êtres.
 Alors Māra le Mauvais, triste et déçu, réalisant:‘Le Bhagavā me connaît, le Sublime me connaît’,
 s’évanouit aussitôt.
 (CÙNG TÁC GIẢ) |