Trụ Xứ

TRỤ XỨ
(Mãn Tự)

hoa sen tranghoa sen trangTừ khi Đức Như LaiThế Tônthị hiệncho đếnhiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm. Hai ngàn sáu trăm năm, tính theo chung cuộc trung bình là 75 năm cho một kiếp sống của chúng sanhthế giới Ta Bà này thì luân hồichuyển hóa khoảng gần 35 kiếp. Thật là dài phải không?

Với hiện tượngbiến hóa của “tình thức” theo dòng thời gian xô đẩy, việc cũ qua đi, cái mới xuất hiện theo sự vận hành của cộng nghiệp là thành – trụ – hoại – không của thế giớivô thường này, vì vậynhận thức của nhân gian dù muốn dù không cũng theo đó mà chuyển đổi. Vì không cưỡng lại được dòng thời gian “xô đẩy” nên chúng sanh nhận lấy Hiện tượng làm thật mà quên đi Bản thể. Thế nào là lấy Hiện tượng làm thật mà quên đi Bản thể, đó là vấn đềcăn bản nhất ở thế giới Ta Bà này là: Sinh – Lão – Bệnh – Tử. Đối với những nước văn minhgiàu có bây giờ thì sinh không còn nguy hiểm với những bà mẹ, vì đã có những kỹ thuật văn minhtiên tiến giúp cho sự sinh được hoàn mỹ. Còn lão thì cũng có viện dưỡng lão giúp cho người già không lo lắng về thực phẩm, mà bệnh cũng vậy, có không biết bao nhiêu loại thuốc để trị liệu cho con người. Còn Tử thì sao? Không một ai giúp được dù đó là gì đi nữa, tuy nhiên có một vài giáo phái phát minh ra phương pháp trợ tử, theo những niềm tin của họ thì làm như vậy giúp cho người chết được đến nơi tốt đẹp?

Sơ lược những điều ở trên để thấy rằng, do đời sốngphong phú nên con người chỉ bám đuổi theo Hiện tượng mà quên đi Bản thể. Thế nào là Bản thểHiện tượng. Thật ra Bản thểHiện tượngchưa bao giờ rời nhau. Nếu Bản thểHiện tượngchưa bao giờ rời nhau vậy làm thế nào để từ Hiện tượngnhận ra Bản thể? Tất cả chúng sinhhiện hữu trên thế giới này có hai Hiện tượng là bắt đầu và chấm hết, dù là bắt đầu hay chấm hết thì với chúng sinh không một ai làm chủ được hết cũng đừng nghĩ là chấp nhận hay không chấp nhận.

Thế nào là Bản thể: Tất cả Hiện tượng trong thế giới này là: Sắc – Thanh – Hương – Vị – Xúc – Pháp là từ Bản thể biến hiện racho đếnsinh tử cũng vậy. Vì vậy vị tu hànhnhận raBản Thể, thấy Bản thể thì Hiện tượng sinh – tử không tồn tại nữa.

Vậy làm thế nào từ Hiện tượngnhận thấy ra Bản thể? Sinh là hiện tượng nếu nhận thấySinh Sinhnhận raBản thể. Tử là Hiện tượng mà thấy được Tử Tử tức thấy được Bản thể. Vì sao sinh tử gọi là Hiện tượng mà không phải là sự thật? Gọi là Hiện tượng vì không người nào làm chủ được nên là Hiện tượng. Nếu sinh tử là thật thì cũng không có sinh tử, vì sao? Nếu sinh là thật thì không còn sinh nữa, tử cũng vậy, nếu tử là thật thì cũng không còn tử nữa.

Một vài giải thích ở trên để đi vào chính đề của bài viết này là xây dựng lại niềm tin cho giới tu hành, từ Tu sĩ cho tới Cư sĩ về giáo Pháp của Đức Như Lai để lại. Vì tình thức nhận lấy sự chuyển biến của dòng thời gian chung cộng nghiệp nên 2600 năm cũng đủ dài làm cho sự nghi ngờ càng ngày càng rộng ra.

Hiện nay trong thâm tâm giới tu hành, từ Tu sĩ tới Cư sĩ hầu hết đều có những câu hỏi, những nghi ngờ to lớn không thể giải quyết bằng chứng minhthực tại mà chỉ dựa vàoniềm tin mà thôi.

Và đây sẽ đưa lên những câu hỏi, những nghi ngờtiêu biểu trong thâm tâm giới tu hành theo giáo PhápĐức Thế TônNhư Lai.

1. Sự nghi ngờ thứ nhất là: Đức Thế TônNhư Lai đã nhập Niết Bàn hay còn tồn tại?

2.  Có chư vị Bồ TátĐại Bồ Tát hay không, nếu có thì chư vị đó ở đâu đang làm gì, có thể thấy biết được không? Tu hành như thế nào để chứng nhập.

3. Thế nào là chánh Pháp, làm thế nào để nhận rachánh Pháp.

4. Có sự giải thoát của bậc Thanh Văn Duyên Giác? Có sự giác ngộ của chư Đại Bồ Tát?

Thật ra thì có rất nhiều câu hỏi nghi ngờ trong giới tu hành, tuy nhiên ở đây chỉ đưa lên bốn sự nghi ngờcăn bản, cũng mong rằng sự giải đáp trong bài viết này có thể giúp các vị tu hành đang tìm cầu định hướng, củng cốniềm tinvững vàngtinh tiến để tiếp tục đi tới.

Sự nghi ngờ thứ nhất là: Đức Thế TônNhư Lai đã nhập Niết Bàn hay còn tồn tại. Trước nhất phải hiểu từ Niết Bàn. Niết Bàntừ ngữ của đạo Hindu Đức Thế Tônphương tiện mượn nó để chỉ cho các vị Tu sĩBà La Môn rằng Niết Bàn không phải chỉ là như vậy mà nó còn siêu việt hơn thế nữa.

Niết Bàn có ba tầng cấp độ.

1. Niết Bàn của các vị Ngoại đạoTu sĩBà La Môn.

2. Niết Bàn của các vị Thánh Nhị ThừaThanh VănDuyên Giác.

3. Niết Bàn các vị Đại Bồ Tát, chư Như Lai.

Thế nào cảnh giới Niết Bàn của các vị Ngoại đạoTu sĩBà La Môn: Niết Bàn các Ngoại đạoTu sĩBà La Môn là trong Tam giới, tức các cõi Trời từ Dục giới, Sắc giớicho đếnVô Sắc giới. Phương Pháptu tập để được đến các cõi đó là từ Sơ thiềncho đếnCửu thứ đệ Định. Tùy theođịnh lực mạnh hay yếu, ý thứccộng thêm tưởng, cảnh giới hướng đến, nhờ tập trung cao độ nên khi đắc định thì cảnh giới tưởng hướng đến hiện ra. Nên nhớ các vị Ngoại đạoTu sĩBà La Môn trước khi tu học thì họ được các vị thầy giảng, hay học từ kinh điển hay hình ảnh về các cảnh giới hay các cõi trời, rồi ghi nhận lưu lại làm ấn tượng hướng đến tu tập, nên khi nhập địnhcảnh giớixuất hiện nên gọi là tưởng, vì sao? Vì Tam giới duy Tâm. Nói chung các Ngoại đạo cùng Tu sĩBà La Mônchứng đắc như thế nào thì cũng không ra ngoài cái Tưởng. Vì sao? Vì Tâm lưu trú.

2. Là Niết Bàn của các vị Thánh Nhị ThừaThanh VănDuyên Giác.

Niết Bàn của các vị Thánh Nhị Thừatrạng tháitịch tịnh. Trạng tháian lạctịch tịnh đó do thiền địnhquán Pháp mà chứng giải thoáttrói buộcphiền não. Pháp các vị Thanh Văntu họcTứ Thánh ĐếBát Chánh Đạo, còn Pháp các vị Duyên GiácThập Nhị Nhân Duyên.

Sự khác biệt giữa thiền địnhđạo Phật và đạo Hindu Bà La Môn cùng Tu sĩNgoại đạo là: các vị Thanh Văn theo Đức Thế Tôn nhờ các Pháp Thế Tôn chỉ dạy mà thiền địnhtu học, nên khi đắc định thì được giải thoátphiền nãotrói buộc, Tâm được an lạctịch tịnh. Còn các vị Ngoại đạoBà La Môn khi đắc định thì được sanh vào các cảnh giới trong Tam giới. Dù vậy, có một số Ngoại đạoBà La Môn cũng tu hànhthiền định mà không muốn thác sinh vào Tam giới, chỉ mong cầu được tịch tịnh. Tuy nhiên vì không có Pháp, vì nhận nhầm Pháp đoạn diệt nên khởi vọng tưởng xóa hết cái nhân giác tri, cho tất cả hư vô như thỏ không sừng. Do khởi Tâmtu hànhsai lầm nên kết quả thành vô tri vô giácVô Tưởng Thiên là nơi đến.

Các vị Thánh Nhị Thừa dù được Niết Bàntịch tịnhan lạc, tuy nhiênNiết Bàn đó không phải là rốt ráo vì không chuyển được Thức thành Trí nên còn hai cái chấp.

Một là: Chấp tướng đắc tự giác Thánh Trísai biệt.

Hai là: Tướng so sánhchấp trước tánh vọng tưởng của tự tánh.

Thế nào là tánh “Đắc tự giác Thánh Trí sai biệt” của thừa Thanh Văn. Hãy suy ngẫm đoạn Kinh Lăng GiàĐức Thế TônNhư Lai chỉ ra: “Ấy là cảnh giớichơn Đế, vô thường, khổ, không, vô ngã, lìa dục, tịch diệt, dứt ấm, giới, nhập, tự cộng tướng, ngoài bất hoại tướng, như thật biết Tâm được tịch lặng. Tâm tịch xong được thiền địnhgiải thoáttam muội đạo quả”. Tuy nhiênchánh thọgiải thoát ấy chẳng lìa biến dịch sanh tửbất tư nghị.

Thế nào là so sánhchấp trước tánh vọng tưởngtự tánh: ấy là đại chủng xanh, vàng, đỏ, trắng, địa, thủy, hỏa, phong, chẳng do tạo tác mà sanh tự tướngcộng tướng, tuy nhiên các vị Nhị Thừa không nhận ra đó chỉ là phương tiện của Đức Thế Tôn thuyết, chư vị Thanh Văn do đó khởi tự tánhvọng tưởng. Ấy gọi là tướng so sánhchấp trước, tánh tự tánhvọng tưởng của thừa Thanh Văn.

Tóm lạiNiết Bànchứng đắc của Nhị Thừakhông thật vì sự an lạctịch tịnh đó chỉ là cái thức lặng dừng chứ không chuyển được cái Thức thành Trí.

3. Niết Bàn chư vị Đại Bồ Tát, chư Như Lai.

Không như Niết BànNgoại đạo cùng Nhị Thừa vì cả hai còn trong vòngnhị nguyênđối đãi. Ngoại đạo thì từ nơi này đến nơi kia còn Nhị Thừa thì chỉ thích tịch tịnh, không ưa náo động.

Còn thế nào là Niết Bàn chư vị Đại Bồ Tát: đó là Niết Bàn không “dấu vết”, vì sao không dấu vết? Vì “Pháp Pháp trí tuệ, niệm niệm Niết Bàn”. Do trí tuệ chiếu trên Pháp Pháp nên Niệm Niệmthanh tịnh. Vì niệm niệmthanh tịnh nên gọi Niết Bàn (nên nhớ Niết Bàn chỉ là danh tự mà thôi)

Thế nào là Pháp Pháp trí tuệ. Đó là Phàm Phu Pháp (hay thế gian pháp), Nhị Thừa Pháp, Bồ Tát Pháp. Trong hai Pháp là thế gian PhápBồ Tát Pháp bất ly, bất nhịPhật Pháp bất ly thế gian Pháp, còn Pháp Nhị Thừa thì đứng riêng. Đối với thế gian thì các vị Nhị Thừakhông chấp nhận vì nó phiền não ồn náo, còn đối với Bồ Tát Pháp thì không mong cầu vì các vị Nhị Thừa đã thỏa mãn những gì đã chứng đắc và bằng lòng an trú ở đó. Đối với các ngài ngôi Chánh Đẳng Chánh GiácVô Thượng Bồ Đề, độ tận chúng sanh không phải là việc của các ngài.

Ở trên giải thích một ít về danh từ Niết Bàn. Bây giờ nói về Niết Bàn không dấu vết: Trong Kinh Lăng Già, bài kệtán thánĐức Như Lai của ngài Đại Huệ Bồ Tát có một đoạn nói về Niết Bàn như thế này: “Niết Bàn chẳng thể lập. Chẳng có Niết Bàn Phật. Chẳng có Phật Niết Bàn. Lìa năng giác sở giác. Hoặc có hoặc không có. Cả hai thảy đều lìa”.

  Bài kệ ở trên cho thấy rằng Niết Bàn là một trong trạng thái mà người tu hànhBồ Táttự chứng ngộ trong Tâm, chứ không phải một nơi chốn nào đó mà cần phải đi đến. Với hầu hết trong giới tu hànhquan niệm lệch lạc là khi chết mới nhập Niết Bàn. Vậy Đức Thế Tôn khi giác ngộthời gian 45 năm thuyết Phápđộ sinh thì gọi là gì? Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn có vị Bồ Tát hỏi về cảnh giới Niết Bàn thì Đức Thế Tôntrả lời: “Thân ta chính là Niết Bàn” còn đối với chúng sanh không hiểu về Niết Bàn như Ma VươngBa Tuần thì Thế Tôn nói khác khi yêu cầu ngài nhập Niết Bàn.

“Chẳng có Niết Bàn Phật, chẳng có Phật Niết Bàn”. Vì vậy chư Thế Tôn, chư Đại Bồ Tát không nhập Niết Bàn. Vậy nếu các vị không nhập Niết Bàn thì đang ở đâu? Làm gì? Có thể thấy biết được không? Trước khi trả lời những nghi ngờ của giới tu hành, ở đây xin nói trước là những câu trả lời không phải tất cả mọi trình độ đều nhận được mà phải là giới tính hoa thật Tâm tu hành nhiều năm công phu mới nắm bắt được, vì đã ra ngoài sự nhận thức sáu căn, sáu trần. Thêm nữa cũng có những từ ngữ như “có và không” tuy nhiên có, không đó không ở trong nhị nguyên. Có, Không nhị nguyên được thành lập bởi lục căn, lục trần. Vì vậy khi trần hiện thì gọi là có, khi trần diệt thì gọi là không, mà sau đây cũng dùng từ có, không tuy nhiên nghĩa thì nằm ngoài căn, trần, thức.

Sự nghi ngờ đặt lên câu hỏi là: “có chư Như Lai, chư vị Đại Bồ Tát hay không” xin trả lời xác quyết là “Có”. Nói là có, vậy chư vị đó ở đâu? Có thấy được không? Có thể gặp được không? “Chắc chắn là thấy được gặp được”. Nói là “có” là “gặp được là thấy được”, vì sao? Vì chư vị đó chưa bao giờ rời chúng sanh. Nếu chư vị đó mà rời chúng sanh thì những lời “nguyện” độ tận chúng sanh trong Kinh thành ra hí luận.

Để gặp chư Như Lai, chư Đại Bồ Tát cùng Trụ Xứ của các ngài thì vị hành giả đó phải đầy đủ trang nghiêm hai cấp độ của hai Pháp: Hai Pháp đó là:

Một là: Thấy như thậtthực tướng của “Sắc”.

Hai là: Phải chứng “Ngộ” bất nhị Pháp môn.

Như thế nào là thấy thực tướng của “Sắc”. Chữ Sắc này nói chung là sắc tướng của vạn hữu, vạn Pháp trong Pháp giới được thấy bằng mắt, tuy nhiên cái thấy đó không trung thực đối với hầu hết người thế gian. Vì sao?  Vì một đứng một chuyển hay vì một chữ “nhớ” hay “chấp giữ” nên thấy không trung thựcthật tướng của sắc.

Vậy thế nào là “thực tướng” của Sắc? Không nói được. Vì nói ra được thì nó không còn là nó nữa mà chỉ là danh, tướng, phân biệt mà thôi. Câu thần chú “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” trong Bát Nhã Tâm Kinh là mở đầu cho tiến trình tu hành để chứng được “thực tướng của sắc”

Để thấy được thực tướng của sắc vịhành giảtu hành phải vượt qua bốn tiến trình từ thô đến tế:

Tiến trình thứ nhất là: Phân đoạnvô thường. Phân đoạnvô thường có nghĩa là căn đối cảnh hay căn trần. Vị đó phải thấy được, chứng được sự vô thườngsinh diệt của vạn Pháp.

Tiến trình thứ hai là: Tâm thứcvô thường. Tâm thứcvô thường có nghĩa là nhận ra sự vận hànhdòng Tâm thức do chấp thủ căn – trần mà có.

Tiến trình thứ ba là: Biến dịchvô thường. Biến dịchvô thường có nghĩa là nhận ra Tâm và cảnh bất ly, vì Tâm do cảnh mà khởi, còn cảnh do Tâm mà hiện. Về Thiền Tông, không nhớ là vị Tổ thứ ba hay thứ tư, có câu nói “Cảnh duyên không tốt xấu – Tốt xấu vốn tại Tâm” là như vậy.

Tiến trình thứ tư là: Khi vị hành giảvượt qua ba cấp độ ở trên đến tiến trình thứ tư là thực hiện Hạnh độ sanh tạo cơ duyên đến lúc đúng thời cơ thì “Ngộ” ra thấy được “Thực tướng” của Sắc. Thấy thực tướng của Sắc thì phải tự Ngộ, không ai dạy được hết, cho đếnĐức Thế TônNhư Lai cũng vậy. Đức Thế Tôn chỉ cho chúng tathực tướng của Sắc là “Không tức thị sắc” còn thấy được hay không là phần Hành Giả.

Mãn Tự