Trung Ấm Tái Sinh

TRUNG ẤMTÁI SANH
Thích NữTrí Hải

Kính lễTam Bảo. Kính lễ các luận sư Jamyang Khyentse Rinpoche, Dilgo Khyentse Rinpoche và Sogyal Rinpoche đã
giải thíchgiáo lýtrung ấm.

Trước hết nhắc lại có sáu trung ấm hay bạt đô: trung ấm trong mộng, trung ấm trong đại định, trung ấmtự nhiên của đời sống; trung ấmđau đớn của cái chết; trung ấmpháp tính (thời gian của Ánh sáng căn bảnxuất hiệnngay sau khi chết); và trung ấmtái sinh. Sở dĩtrung ấm là vì tâm vô minhbất giác: bất giác lúc sống, bất giác lúc chết, bất giác lúc gặp ánh sáng chân lý, bất giác lúc tìm tái sinh.

Để hiểu bạt đôtái sinh, có lẽ nên nói thêm về tính chất của tâm.

Tâm ta bình thường cũng như vào lúc chết, có hai khía cạnh: tương đốituyệt đối. Khía cạnh tương đối là cái tâm so đo tính toán, dong ruỗi theo đối tượng 5 giác quan. Nó không ngừng thay đổi luôn luôn dao động giữa những cảm xúcđối kháng như yêu và ghét, v.v.. nên thường mờ tối. Khía cạnh tuyệt đối của tâm là không có thái độ chọn lựa nói trên, nên thường sáng suốt với tia sáng nội tại.
Lúc sống, bị thân xác chướng ngại, bị ám bởi những phiền nãoliên hệ đến thân xác, nên dù một vị tu cao cũng khó mà hằng sống với “bản lai diện mục” hay bản chấttuyệt đối ấy của tâm, gọi là ánh sáng nội tại. Ngược lại, người phàm phu cực ác dù cả đời không biết đến nó, ánh sáng ấy vẫn xuất hiện trước họ, ngay khi tắt thở. Vì ánh sáng ấy là tinh chất
của tứ đại, của tất cả mọi sự khi phân tích đến cùng. Sự xuất hiệnrực rỡ của Ánh sáng nội tại (còn gọi là Phật tính hay pháp tính) là bình đẳng nơi người cực thiện cũng như cực ác Nhưng sự nhận ragiải thích ánh sáng ấy thì hoàn toàn khác nhau, và chính điều này đem lại giải thoát hay rơi vào bạt đôtái sinh. Một bậc thầy về Dzogchen nhờ công phutu tập, khi chết sẽ hòa nhập tâm mình vào ánh sáng ấy và đạt giải thoát. Ngược lại, phàm phu thì sợ hãi trước ánh sáng ấy và theo thói quen, tìm cách ẩn nấp vào những ánh sáng mờ đục của lục đạo, và tạo nên trung ấmtái sinh. Những khuynh hướng tập quán lâu đời vẫn tiềm ẩn sau hậu trường gọi là “nền tảng của tâm phàm tình” để chờ cơ hội nhóm họp trở lại, chỉ tạm thời giải tán khi ánh sáng căn bản ló dạng.

Các bậc thầy về pháp môn Dzogchen nhờ đã
quen làm chủ thân tâm, nên có thể an trú rất lâu trong trạng tháihỷ lạc của trung ấmpháp tính khi họ đã chết trên phương diện lâm sàng.

Một y sĩ đã tường thuật cái chết của Karmapa, một bậc thầy mật tông tại một bệnh viện lớn ở Chicago, Hoa kỳ vào năm 1981 như sau:

“Họ đưa tôi vào phòng ba mươi sáu tiếng đồng hồ sau khi ngài chết. Tôi sờ vùng bên phải, trên trái tim ngài, và thấy nó nóng hơn các chỗ khác. Đấy là một điều mà y học không thể giải thích được”. (Trích dẫn Tạng Thư Sống Chết)

Thời gian đó chính là lúc mà ngài an trú
trong ánh sáng căn bản của tự tính tâm khi nó xuất hiện.

Nhưng phần đông chúng ta do nghiệp lựcthúc đẩy lại trốn chạy ánh sáng ấy và bị cuốn hút vào ánh sáng dịu của lục đạođồng thời chiếu đến ta. Giai đoạn cuối của bạt đôpháp tính này là “hiện diện tự nhiên”. Nếu ở giai đoạn này ta vẫn chưa nhận ra được mọi sự diễn ra không ngoài tâm ta biến hiện, thì ta sẽ kinh hoàng trước những hiện tượng ánh sáng và âm thanh ấy. Bản năng muốn có một thân xác,
cùng với những tập quán của nghiệp hay thói quen cũ của ta bắt đầu tụ lại dưới dạng một thân ý sinh, và đấy là khởi đầu của giai đoạn trung gian hay bạt đôkế tiếp: bạt đôtái sinh.

Danh từ sipa trong sipa bạt đô, dịch là “Trung ấm tái sinh” cũng có nghĩa là “khả năng” và “hiện hữư”. Trong trung ấm này, vì tâm thức không còn bị giới hạn và ngăn che bởi cái thân
vật lýbình thường, nên nó có khả năng vô biên cho việc tái sinh trong các cõi.

Khía cạnh nổi bật của bạt đôtái sinh là, ở đây tâm đóng vai trò quan trọng, trong khi ở giai đoạn bạt đôpháp
tính
, thì mọi sự diễn ra trong phạm viTính giác Rigpa, cốt lõi của tâm. Bởi thế trong bạt đôpháp tính, chúng ta có một thân bằng ánh sáng,
còn trong bạt đôtái sinhchúng ta có một thân do ý sinh.

Trong bạt đôtái sinh, tâm có được ánh sáng vô biên và sự di độngkhông giới hạn, nhưng hướng di chuyển của nó hoàn toàn được định đoạt bởi những khuynh hướng tập quán cũ của ta. Vì vậy nó đưực gọi là bạt đôtái sinh. Kalu Rinpoche nói: “Đó là hậu quảhoàn toànthụ động, mù quáng của những nghiệp đời trước, chúng tahoàn toàn bị nghiệp thức lôi kéo”.

Từ trạng tháithanh tịnh nhất của tâm là
Ánh Sáng Căn Bản, qua ánh sáng và năng lượng của nó, tức là những tướng
hiện ra trong bạt đôpháp tính, bây giờ tâm trải qua một biểu hiện thô hơn: thân ý sinh. Giai đoạn này gọi là trung ấm hay bạt đôtái sinh. Những gì xảy ra ở giai đoạn này là một tiến trình tan rã ngược lại: những ngọn gió lại xuất hiện, cùng với chúng là những trạng thái tư tường liên hệ đến ngu sitham dụcgiận dữ. Rồi, vì ký ức về “thân nghiệp sinh” trong quá khứ của chúng ta đang còn mới mẻ, chúng ta mang một “thân ý sinh”.

THÂN Ý SINH

Thân ý sinh của chúng ta trong bạt đôtái sinh mang một số đặc tính. Nó có đủ tất cả giác quan, vô cùng nhẹ, sáng suốtdi động, và sự nhạy bén của nó cũng được nói là gấp bảy lần
trong đời sống thực. Nó có một số thần thông lặt vặt không được ý thứckiểm soát, nhưng đem lại cho thân ý sinh khả năng đọc được tâm người.

Lúc đầu thân ý sinh có hình dạng giống thân thểtrong đời vừa qua, nhưng không có khuyết điểm, và đang ở độ tuổi thanh xuân. Dù khi sống ta có bị què quặt hay ốm đau liệt giường, thì trong bạt đôtái sinh ta vẫn có được một thân ý sinh toàn hảo. Điểm này dễ hiểu, vì thân ý sinh là do chính tâm ta tưởng ra, do ước mongtiếp tục sống trở lại. Người già ưa nhớ lại những kỷ niệm hồi niên thiếu, có thể nói đây là một tiền vị của tái sinhluân hồi.

Một trong những giáo điển cổ của Dzogchen cho chúng tabiết thâný sinh cỡ bằng một đứa bé từ tám đến mười tuổi. Kẻ viết bài này cũng được nghe nhiều người chưa từng biết đến
Tử thưTây tạng, kể rằng họ thấy người thân đã chết trở về trong ngày cúng thất thất trai tuần, và ngạc nhiên vì người ấy biến thành nhỏ bé.

Do năng lực của tư duy khái niệm, gọi là
“gió nghiệp”, thân ý sinh không thể ở yên dù chỉ trong chốc lát. Nó không ngừng di động, và có thể đi khắp nơi không bị trở ngại. Vì thân ý sinh không có cơ sở vật lý, nên có thể đi xuyên qua tường hay vách núi.

Thân ý sinh có thể thấy suốt những vật thể có ba chiều, nhưng vì thiếu tinh chấtvật lý của cha mẹ, nó chỉ thấy
một ánh sáng mờ ảo ở đằng trước. Khi mang thân ý sinh, ta có thể thấy những chúng sinh khác trong cõi trung ấm, nhưng người sống không thể thấy chúng ta, ngoại trừ những người có thần thông nhờ thiền định. Bởi thế chúng ta có thể gặp và nói chuyện vài giây phút thoáng qua với nhiều
kẻ đang du hành trong thế giới bạt dô (trung ấm), nghĩa là những kẻ chết trước chúng ta.

Do sự có mặt của năm uẩn đang thành hình, nên thân ý sinh đối với chúng ta dường như chắc thực, và chúng ta vẫn còn cảm thấy những cơn đói

cồn cào. Giáo lýtrung ấm dạy rằng thân ý
sinh
này sống bằng mùi hương và rút dưỡng chất từ những đồ cúng được đem đốt, nhưng nó cũng có thể hưởng được những đồ cúng đặc biệtnhân danh nó.

Trong trạng thái này, hoạt động tâm ý rất nhanh: tư tưởngliên tụctrôi qua nhanh, và thân ý sinh có thể làm một lúc nhiều công việc. Tâm tiếp tụcduy trì những mẫu mực, thói quen lúc sống, nhất là thói quenbám víu những kinh nghiệm, và thói quen tin rằng mọi sự tuyệt đối là thực có.

NHỮNG KINH NGHIỆM CỦA CÕI TRUNG ẤM

Suốt trong những tuần đầu trong cõi trung ấm (bạt đô), chúng tacảm tưởng rằng mình là một người đàn ông hay một phụ nữ, hệt như trong đời vừa qua. Chúng ta không nhận ra rằng mình đã chết. Chúng tatrở về nhà để gặp bà con và những người thân yêu.
Ta cố nói với họ, sờ vai họ. Nhưng họ không trả lời, cũng không tỏ ra họ biết có ta ở đấy. Dù cố gắng bao nhiêu, ta cũng không cách nào làm cho họ chú ý đến ta được. Ta bất lực đứng nhìn họ khóc, hay ngồi thẫn thờ với cõi lòng tan nát vì cái chết của ta. Ta lại còn cố một cách vô hiệu để sử dụng những đồ đạc của ta khi trước. Chỗ ta ngồi nơi bàn ăn không còn dành cho ta nữa, và người ta đang làm những chuẩn bị để thanh toáncủa cải của ta. Ta cảm thấy tức tối, bị thương tổn, hằn học, “như một con cá quằn quại trên đất nóng”. Tử thư nói:

Nếu hết sứcquyến luyến cái thân xác của
mình, thậm chí ta lại còn cố nhập vào nó hay lảng vảng bên nó. Có những
trường hợpquá khích là thân ý sinhlai vãng gần tài sản hay xác của họ
hàng
tuần, hàng năm mà vẫn chưa có thể nghĩ rằng mình đã chết. Chỉ khi họ thấy mình không có bóng in trên mặt đất, không in dấu chân bước, cũng
không phản chiếu trong gương, họ mới vỡ lẽ.

Và nỗi kinh hoàng khi nhận ra mình đã chết, làm cho họ ngất xỉu. Trong cõi trung ấmtái sinh, ta sống lại tất cả những kinh nghiệm của đời vừa qua, ôn lại những kỷ niệm đã từ lâu phai mờ trong ký ức, và thăm lại những nơi chốn cũ, “dù chỉ là nơi ta chỉ có khạc nhổ trên đấy một lần”. Cứ bảy ngày một lần, ta lại bị bắt buộc phải sống trở lại cái kinh nghiệm chết, với tất cả nỗi đau khổ của nó. Và nên nhớ, mọi sự được tái diễn với một ý thức mãnh liệt gấp bảy lần lúc sống. Và trong giai đoạn thoáng qua của trung ấmtái sinh, mọi nghiệp ác của các đời trước trở lại, một cách cường liệt làm cho tâm ta rối bời.

Cứ thế ta một mình lang thang không ngừng qua thế giớitrung ấm, kinh hoảng như trong một cơn ác mộng. Và cũng hệt như trong mộng, ta tin rằng mình có một cái thân vật lý, và mình thực sự hiện hữu. Tuy thế tất cả những kinh nghiệm của bạt đô này chi do tâm biến ra, do nghiệp và những tập quán cũ của ta tái diễn.

Những ngọn gió của tứ đạitrở về, và ta nghe những âm thanh to lớn của đất nước gió lửa: tiếng núi lở, tiếng nước gầm, tiếng hỏa diệm sơn bốc cháy, tiếng giông tố bão bùng. Khi ta hoảng hốt cố chạy thoát những thứ này, thì trong bóng tối mờ ảo trước mặt ta mở ra ba hố thẳm trắng, đỏ, đen, sâu kinh khủng. Tử thư nói đây là tâm giận dữ, tham dụcngu si của ta biến ra. Ta bị tấn công bởi những ngọn thác đổ, mưa đá bằng máu mủ; bị ám ảnh bởi những âm thanh la hét của quỷ không đầu; bị săn duổi bởi những yêu quái và thú dữ chuyên ăn thịt.

Bị ngốn ngấu bởi nỗi hoảng sợ, bị thổi giạt qua lại như những nhị hoa bay trước gió, ta lang thang vô vọng qua cõi trung ấm. Bị cơn đói khát dày vò, ta tìm nơi trú chỗ này chỗ khác. Nhận thức của tâm ta thay đổi từng chặp, lúc vui lúc buồn. Bỗng tâm ta đâm ra khao khát có một xác thân vật lý, nhưng lại không thể tìm được, làm cho ta lại rơi vào đau khổ. Toàn thể khung cảnh ấy đều do nghiệp ta un đúc, cũng như thế giớiác mộng do vọng tường chúng ta tạo nên. Nếu bình thường lúc sống, ta có hành động tích cực, thì kinh nghiệmnhận thứcchúng ta trong cõi trung ấm sẽ là hạnh phúcan lạc; nếu đời ta tác hại và làm người khác dau khổ, thì kinh nghiệm trong cõi trung ấm của ta sẽ đầy đau đớn buồn sầu. Bởi thế Tử thư nói rằng những người đánh
cá, đồ tể, thợ săn đều bị tấn công bởi những hình ảnhghê rợn của những
nạn nhân của họ trước kia.

ĐỘ DÀI CỦA TRUNG ẤMTÁI SINH

Toàn thểtrung ấmtái sinh kéo dài trung
bình bốn mươi chín ngày, và ít nhất là một tuần. Nhưng cũng còn tùy, giống như hiện tại có người sống tới trăm tuổi, trong khi kẻ khác chết non. Một số lại còn bị kẹt trong thế giớitrung gian để thành ma quỷ. Dudjom Rinpoche thường giải thích rằng suốt trong hai mươi mốt ngày đầu của thời giantrung ấm, bạn vẫn còn có một ấn tượng mạnh về đời sống vừa
qua, bởi thế đây là giai đoạn quan trọng nhất để người sống giúp đỡ người chết. Sau đó đời sống tương lai của bạn dần dầnthành hình, và trở
thành
ảnh hưởng chính.

Chúng ta phải mang thân trung ấmcho đến
khi nào nghiệp ta bắt liên lạc được với cha mẹ tương lai. Nhưng có hai trường hợpđặc biệt không trải qua giai đoạn trung ấm, mà đi ngay vào một tái sinh mới do tính cách cường liệt của nghiệp lực. Trường hợp đầu tiên là những người đã sống một đờivô cùnglợi lạctích cực, đã tu luyện tâm đến trình độnăng lựctu chứng đưa họ trực tiếp vào một tái sinhtốt đẹp. Trường hợp thứ hai là những người đã sống một đờitiêu cựctác hại, họ đọa rất nhanh xuống tái sinhkế tiếp, bất cứ ở đâu.

NĂNG LỰC CỦA TÂM

Vì trong cảnh giớitrung ấm, tâm ta rất nhẹ nhàng linh động và bén nhạy, nên bất cứ tư tưởng nào khởi lên, tốt hay xấu, đều có ảnh hường và năng lực ghê gớm. Vì không có một cơ thể vật lý làm nền tảng, nên những ý tường trở thànhthực tại. Hãy tưởng tượng sự buồn bã giận dữ khốc liệt mà ta có thể cảm thấy khi trông thấy người sống làm đám tang cho ta quá sơ sài, hay bà contham lam đang tranh giành những vật sở hữu của ta, hay bạn bè mà ta rất yêu mến, và ta
tưởng cũng rất yêu mến ta, bây giờ đang nói về ta một cách khinh miệt, thương tổn, hỗn hào. Một tình huống như vậy có thể rất nguy hiểm, vì phản ứngbạo hành của ta có thể đưa ta thẳng đến một tái sinhbất hạnh.

Như vậy, năng lực mãnh liệt của tâm là vấn đềthen chốt trong trung ấmtái sinh. Trong giai đoạn này, ta hoàn toàn bị làm mồi cho những thói quen, và khuynh hướng cố hữu mà ta đã dung dưỡng, để chúng tăng trường và thống trị đời ta. Nếu bạn không kiểm
soát
những khuynh hướng ấy ngay bây giờ trong khi sống, ngăn chúng xâm chiếm tâm bạn, thì trong trung ấmtái sinh, bạn sẽ thành nạn nhân tội nghiệp của chúng, bị mãnh lực của chúng đưa đẩy. Một sự giận dữ nhỏ nhặt
trong trạng tháitrung ấm cũng có thể có một ảnh hưởngtai hại; bởi thế
mà theo truyền thống, người đọc tử thư cho bạn lúc sắp chết phải là người mà bạn có quan hệ tốt đẹp; nếu không, nội một việc nghe âm thanh tiếng nói của y cũng đủ làm cho bạn nổi tam bành, và điều này sẽ có những hậu quảvô cùng khốc hại.

Giáo lýmô tảtính chất sống sít của cái
tâm ở trong trạng tháitrung ấm là, nó giống như một thỏi sắt nung đỏ sẵn sàng uốn bất cứ kiểu nào. Cũng thế, một tư tưởngtích cựcduy nhất trong trạng tháitrung ấm có thể trực tiêp dẫn đến giác ngộ, một phản ứng xấu cũng đủ làm bạn chìm vào đau khổlâu dài. Tử Thưcảnh cáochúng ta một cách mạnh mẽ như sau:

“Đến đây là ngã rẽ đôi đường lên xuống; đây là lúc mà chỉ cần lướt vào sự lười biếng một chút, ngươi cũng đủ chịu khổ triền miên, đây là lúc mà chỉ cần tập trung một chút, ngươi cũng sẽ hưởng được hạnh phúc lâu bền. Hãy chú tâm không tán loạn, hãy nỗ
lực
kéo dài hậu quả thiện nghiệp!”

Tử thư cố khơi dậy bất cứ một liên hệ nào với sự tu tập mà người chết có thể có, và khuyến khích từ bỏbám víu
người, của, từ bỏ sự khát khao có một thân xác, đừng buông trôi theo giận dữ hay tham dục, đào luyện sự tử tế hơn là thù hằn, đừng nghĩ đến việc ác. Tử thư nhắc nhở người chết không cần phảisợ hãi: Một mặt, cho người chết biết những hình dạng ghê rợn trong cõi trung ấm chỉ là do tâm
họ chiếu ra, thực chất vốn trống rỗng; mặc khác, nhắc người chết rằng bây giờ họ chỉ có cái thân ý sinh do tập quán cũ, bởi thế cũng là trống rỗng. “Bởi thế cái trống rỗng không thể làm hại cái trống rỗng”.

Bản chất bấp bênh chóng qua của giai đoạn trung ấm có thể là nguồn suối cho nhiều cơ hội giải thoát, và tính bén nhạy của tâm trong trung ấm này có thể hóa ra lợi lạc cho chúng ta. Chúng ta chỉ cần nhớ đến những lời giảng dạy; ta chỉ cần có một tư tưởngtích cực khởi lên trong tâm ta. Nếu ta nhớ được một giáo lý nào gợi cho
ta tự tính tâm, nếu ta có dù chỉ một khuynh hướng tu tập, hay một liên hệsâu xa với sự tu hành, ta cũng đủ nhờ vậy màgiải thoát.

Trong trung ấmtái sinh, các cõi Phật không hiện ra một cách tự nhiên như trong trung ấmpháp tính. Tuy nhiên,
chỉ cần nhớ đến chư Phật, bạn cũng có thể đi thẳng đến các cõi Phật bằng năng lực tâm mình, và tiến đến giải thoát. Nếu bạn có thể niệm danh
hiệu
một vị Phật, vị ấy liền hiện ra trước bạn. Nhưng nên nhớ, mặc dù các khả năng là vô giới hạn, chúng ta vẫn phải có sự tự chủ tâm ý trong trung ấm này, và điều này vô cùng khó khăn, vì tâm ta ở giai đoạn này hết sức bén nhạy, phân tán và bất an.

Bởi thế trong trung ấm này, bất cứ khi nào bạn có thể tỉnh giác dù chỉ trong thoáng chốc, thì bạn hãy lập tức nhớ lại sự tu tập, nhớ thầy hay vị Phật mà bạn thờ, và tha thiết triệu thỉnh ngài. Nhờ năng lựcân sủng của bậc thầy hay vị Phật, tâm bạn sẽ được giải thoát, tan hòa vào không gian của tâm giác ngộ. Sự cầu nguyệntrong đời dường như ít hiệu quả, nhưng trong cõi trung ấm lại có hiệu quả mãnh liệt vô cùng.

Tuy nhiên sự mô tả trên đây về trung ấmchứng tỏ thực rất khó mà tập trung tâm ở giai đoạn này, nếu ta không thực tập từ trước. Hãy nhớ những lúc gặp ác mộng, ta cảm thấy bất lực như thế nào, thì trong cảnh giớitrung ấm cũng khó tập trung tâm ý như vậy, nếu không nói là khó hơn. Đấy là lý doTử thư luôn nhắc đi nhắc lại
một lời “đừng xao lãng”. Và Tử thưnhấn mạnh:

Đến đây là ngõ rẽ giữa Phật và hữu tình…

TÁI SINH

Vì trong trung ấmtái sinh, thời giantái sinh càng gần, nên ta càng thêm khao khát một thân xác làm chỗ nương, và ta đi tìm một người nào có thể sử dụng để được tái sinh vào đó. Những dấu hiệu bắt đầu hiện ra, báo cho ta biết cái cảnh giới ta có thể tái sinh vào. Những ánh sáng đủ màu chiếu từ sáu nẻo luân hồi, và ta
cảm thấy bị thu hút vào một cõi này hay khác, tùy theocảm xúctiêu cực
nào mạnh nhất trong tâm ta. Một khi ta đã bị lôi cuốn đến đây thì thật vô phương trở lui.

Giáo lý về trung ấm dạy rằng, vào điểm ấy có nguy cơ lớn là, do lòng nôn nóng thèm kháttái sinh, ta có thể xông tới bất cứ nơi nào, dù ở đấy không có vẻ gì an ninhbảo đảm. Sự giận dữ khởi lên sẽ đưa giai đoạn trung ấm đến một kết thúc, vì ta sẽ bị
đẩy vào cõi dữ bằng chính năng lựccảm xúc của mình. Và như thế, ta có thể thấy tái sinh tương lai của ta được trực tiếp định đoạt bởi tham, sân, và si. Hãy tưởng tượng ta đang chạy về phía một chỗ nấp, chỉ để tránh thoát kinh nghiệmđau khổ của trung ấm. Rồi vì sợ phải từ bỏ tất cả, ta đâm ra ràng buộc với một cuộc đời mới, bất kể ở đâu miễn là được tái sinh. Khi ấy ta có thể đâm ra thác loạn, lầm lẫntái sinh tốt với xấu, xấu với tốt. Ta có thể nghe tiếng gọi của những người thân yêu hoặc
giọng ca hấp dẫn, rồi chạy theo chúng, để cuối cùng bị dẫn dụ xuống những cõi thấp kém.

Bởi vậy, phải cẩn thận đừng mù quángđi vào những cõi vô phúc ấy. Điều kỳ diệu là, ngay lúc ý thức được cái gì đang xảy đến, thì ta có thể bắt đầu tác động, và điều ấy ảnh hường đến số phận của ta.

Bị đẩy tới bởi ngọn gió nghiệp, thân ý sinh đi dến một nơi ở đấy cha mẹ đang giao hợp, bị kéo vào trong cảm xúc
ấy; và do nghiệp quá khứ, nó tự nhiêncảm thấy rất thương hoặc rất ghét. Sự quyến luyến người mẹ, và thù ghét ganh tị với người cha sẽ đưa đến hậu quả là nó sinh thành con trai, ngược lại là gái. Nhưng nếu nó ngã quy trước những cảm xúc rất mạnh, thì nó có thể sinh vào một cảnh giới hèn hạ.

Có cách nào ta có thể làm bây giờ, để tránh bị tái sinh hoặc hướng dẫn sự tái sinhkế tiếp của ta không? Giáo lý về trung ấm đưa ra hai chỉ dẫnđặc biệt: phương phápngăn ngừatái sinh, nếu không ngăn được, thì chọn một tái sinh tốt. Đầu tiên là những chỉ dẫn để đóng cửa ngõ đi vàomột đời sống khác: Phương pháp tốt nhất là từ bỏ những cảm xúc như tham dục, giận dữ, ganh tị, và nhận chân rằng
không một trạng tháitrung ấm nào có thực chấttối hậu.

Nếu bạn có thể nhận chân điều ấy, rồi để
tâm
an trú vào bản chấtchân không của nó, thì chính điều này sẽ ngăn ngừatái sinh. Tử thưTây tạng báo cho chúng ta biết:

“Than ôi Cha và mẹ, cơn bão lớn, luồng gió xoáy sấm sét, những cảnh tượngkinh hoàng và tất cả những gì hiện ra
đấy, bản chất đều huyễn ảo. Dù có hiện tướng gì đi nữa, thì cũng không thực. Mọi chất liệu đều giả dối, trống rỗng. Chúng như ảo ảnh, không trường tồn. Tham ái mà làm chi? Sợ hãi mà làm chi? Như vậy là xem cái không thành cái có…”

Tử thư lại khuyến cáo tiếp:

“Tất cả đều do tâm biến ra, và tâm ấy vốn là chân không, vô sinh, không bị chướng ngại. Khi nghĩ vậy, hãy để tâm ngươi tự nhiên trong bản chất của nó, như nước đổ vào nước, cứ như nó là, thong thả, phóng khoáng và thư dãn. Khi để nó an trútự nhiênthong thả, ngươi có thể bảo đảm ngõ vào mọi tái sinh sẽ bị đóng lại”.

Phương pháp hay nhất kế tiếp để ngăn ngừatái sinh là nhìn những người có thể làm cha mẹ bạn như là Phật, hay
thần hộ mạng Yidam của bạn, và ít nhất, bạn hãy cố phát sinh một cảm giáctừ bỏ, không bị lôi kéo vào cảm xúctham dục, và nghĩ đến những cõi
Phật
thanh tịnh. Điều này sẽ ngăn ngừatái sinh và khiến bạn gặp được một trong những cõi Phật.

Nếu bạn không thể an trú tâm đủ vững vàng để làm như vậy thì còn có những phương pháp chọn lựa một tái sinh, liên hệ đến những điểm mốc và những tướng các cảnh giới khác nhau. Nếu bạn nhất định phải tái sinh, hay cố ý muốn tái sinh để theo đuổicon đường tu tập và làm lợi ích người khác, thì bạn không nên đi vào cõi nào
khác cõi người ta. Chỉ có ở đấy các điều kiện mới thuận lợi cho sự tiến
tu
đạo nghiệp. Giáo lý về trung ấmcho biết, nếu bạn sắp sửa sinh vào một hoàn cảnh tốt trong cõi người, thì bạn sẽ cảm thấy mình đang đi vào một ngôi nhà sang trọngđẹp đẽ, hay một đô thị, hay ở giữa một đám đông.

Ngoài những cách ấy ra, thông thường chúng ta không có lựa chọn nào. Chúng ta bị lôi kéo về chỗ thọ sinh của ta “như con chim bị sa lưới, như

cỏ khô bắt lửa, hay súc vật sa đấm lầy”.
Tử thư nói: “Này hỡi thiện nam nữ, dù người không muốn đi người cũng không có năng lựctự chủ; ngươi bị bắt buộc phải đi”.

Tuy nhiên, như giáo lý luôn luôn nhắc ta, vẫn còn có hy vọng; bây giờ là lúc nên cầu nguyện. Nhờ tha thiết mong mỏi và tập trung mãnh liệt, ngay trong lúc này, bạn vẫn còn có thể tái sinh vào cõi Phật hoặc bạn có thể phát nguyệnsâu xatái sinh vào một gia đìnhloài người ở đấy bạn có thể gặp đường lối tu tập và tiếp tục tiến đến giải thoát. Nếu bạn có một nghiệp nặng buộc bạn rơi vào một
cảnh giớiđặc biệt nào, thì có thể bạn hết phương chọn lựa, tuy nhiên, lời nguyệnquá khứ và sự mong cầu của bạn có thể giúp bạn chuyển số phận
dể tái sinh vào một đời sống mà một ngày nào đó sẽ đưa bạn đến giải thoát.

Ngay cả khi bạn đã nhập thai, cũng có thể cầu nguyện cho điều này xảy ra. Bạn có thể quán tưởng mình như một chúng sinhgiác ngộ, như thần Kim Cươngtát đỏa (Vajrasattva)–theo lời các bậc thầy thuộc truyền thống nói–và làm cho cái thai cung mà bạn đang
vào biến thành một môi trường thiêng liêng, “một cung trời” ở đấy bạn tiếp tụctu luyện.

Bây giờ khi trung ấmtái sinhhiện ra
Tôi sẽ tập trung nhất tâmthiền quán,
Và cố kéo dài những hậu quả của nghiệp tốt,
Cố mà đóng cái cửa ngõ tái sinh.
Đây là lúc cần tinh tấnnhận thức thuần tịnh;
Hãy từ bỏcảm xúctiêu cực, và quán tưởng bậc đạo sư.

Cuối cùng, chính sự thúc giục của tự tâm
muốn trú trong một cõi nào đó, đã buộc ta tiến về tái sinh, và chính khuynh hướng chấp thủ của tâm ta đã thể hiệnthành thântái sinh. Đây là
giai đoạn kế tiếp trong tiến trình xuất hiện.

Nếu bạn thành công trong việc hướng tâm về một tái sinh thân người, thì tức là bạn đã di trọn chu kỳ. Bạn sẽ được sinh vào trung ấmtự nhiên của đời này, tức là giai đoạn nhập thai.
Điều này kết thúctrung ấmtái sinh, khi tâm bạn một lần nữa kinh quá rất nhanh những tướng trạng của giai đoạn tan rã, và sự xuất hiện của ánh sáng căn bản. Rồi kinh nghiệm tối đen của sự “thành tựu” lại khởi lên, và đồng thờiliên lạc với bào thai mới bắt đầu.

Như vậy đời sống khởi đầu cũng như kết thúc bằng Ánh sáng căn bản.