(Bốn Chân Lý Cao Cả)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma Thứ 14 thuyết pháp tại Đại Học Washington
Bạch Nga (Lozang Ngodrub) chuyển ngữ
Tất cả các tôn giáo, nói chung, đều có động
lực từ lòng từ bi và nhân ái. Mặc dù các tôn giáothường có sự khác biệt lớn
trên bình diện triết học, nhưng mục đích cơ bản cũng đại khái giống nhau, đó là
mang đến sự tiến triểntốt đẹp. Dĩ nhiên, mỗi tín ngưỡng có những phương pháp đặc
thù. Mặc dù các nền văn hóadĩ nhiên khác nhau, nhưng chúng ta đang ngày càng đến
gần nhau hơn, vì thế giới ngày càng thu nhỏ với sự tiến triển của ngành thông
tin, tạo dịp tốt để chúng tahọc hỏi lẫn nhau. Tôi cảm thấy điều này rất hữu
ích.
Thí dụ, Thiên Chúa giáo có rất nhiều phương
pháp rất thực tiễn và hữu ích để phụng sựnhân loại, nhất là trong lãnh vựcgiáo
dục và y tế. Vì vậy, các tín đồPhật giáo còn có nhiều điều cần học hỏi thêm về
phương diện này. Đồng thời, Phật pháp có những phương phápthiền địnhsâu xa và
những lý luận triết lý mà các tín đồ Thiên Chúa cũng có thể học hỏi. Trong thời
cổ đại ở Ấn Độ, các tín đồPhật giáo và Ấn giáo học hỏi lẫn nhau rất nhiều.
Vì các hệ thốngtôn giáo cùng có mục đích
cơ bản là làm lợi lạc cho con người, vì vậy không có gì sai trái nếu chúng tahọc
hỏi lẫn nhau về mặt khuyết điểm, còn về mặt ưu điểm thì giúp chúng tatôn trọng
lẫn nhau; điều này khuyến khích sự hòa hợp và thống nhất. Vì lý do này, tôi sẽ
nói sơ qua về những tư tưởngPhật giáo.
Căn bản của Phật pháp là Bốn Chân Lý Cao
Cả (Tứ Diệu Đế) – những chân lý về khổ (khổ đế), nguồn gốc của khổ (tập đế), diệt
khổ (diệt đế) và con đườngdiệt khổ (đạo đế). Tứ đếgồm có hai nhóm quả và
nhân: đau khổ và nguồn gốc của đau khổ; sự chấm dứtđau khổ và con đường dẫn đến
sự diệt khổ. Sự đau khổ giống như một căn bệnh; những điều kiện bên ngoài và
bên trong tạo nên căn bệnh chính là nguồn gốc của đau khổ. Sự lành bệnh là sự
chấm dứt nỗi đau khổ và những nguyên nhân gây khổ. Những phương thuốc trị bệnh
là những con đườngchân chính.
Lý do mà các quả, đau khổ và sự diệt khổ,
theo thứ tự đi trước các nhân, nguồn gốc của khổ và con đườngdiệt khổ, là vì:
Trước nhất, ta phải tìm ra căn bệnh, tức là khổ đế hay diệu đế thứ nhất. Nhưng
nếu chỉ nhận diện ra căn bệnh thôi thì chưa đủ; muốn biết cần dùng thuốc gì thì
phải
biết nguyên nhân
của căn bệnh. Vì vậy, chân đế thứ nhì của tứ diệu đế là nguyên nhân hay nguồn gốc
của đau khổ.
Chỉ tìm ranguyên nhân của căn bệnh thôi
cũng chưa đủ, ta cần phải xác định xem có thể trị được bệnh hay không. Nhận thức
rằng căn bệnh có thể chạy chữa được cũng tương tự như chân đế thứ ba, sự chấm dứtđau khổ và nguyên nhân của đau khổ.
Giờ đây, sự đau khổ mà không ai mong muốn
đã được xác nhận; những nguyên nhân tạo khổ cũng đã được nhận diện; đúng vào thời
điểm mà ta hiểu rằng căn bệnh có thể chữa trị được thì ta sẽ dùng những thứ thuốc
chuyên trị bệnh này. Tương tự như vậy, nương tựa vào những con đường dẫn đến sự
giải thoátđau khổ là một điều thiết yếu.
Trước tiên, điều quan trọng nhất là nhận
diện được sự đau khổ. Khổ, nói chung, gồm có ba loại – khổ vì đau đớn (khổ khổ);
khổ vì thay đổi (hoại khổ); và khổ thâm nhập khắp cùng do ngũ uẩn (hành khổ).
Khổ vì sự đau đớn là những cái khổ mà chúng tachịu đựng về thể xác hay tinh thần,
thí dụ như bị nhức đầu. Không những con người mà thú vật cũng mong ước được
thoát khỏi cái khổ này. Có những phương cách để tránh khỏi một vài loại khổ
này, thí dụ như uống thuốc, mặc đồ ấm vào và tránh xa nguyên nhân tạo ra đau đớn.
Loại thứ nhì, khổ vì thay đổi, là điều
mà bề ngoài ta cho là lạc thú, nhưng nếu nhìn cho rõ, thì chỉ là sự đau khổ mà
thôi. Lấy thí dụ như mua một chiếc xe mới là điều mà ta thường cho là thích
thú. Khi mới có xe, ta rất vui vẻ, vừa ý và thỏa mãn, nhưng khi dùng nó thì vấn
đề bắt đầu xảy ra. Nếu chiếc xe tự nó là một niềm vui sướng, thì khi càng sử dụng
nguồn thỏa mãn này, lạc thú của ta phải tăng lên theo, nhưng điều này không diễn
tiến như vậy. Khi được sử dụng nhiều, xe lại bắt đầu tạo ra sự rắc rối. Vì vậy,
ta gọi đây là đau khổ vì thay đổi; sự thay đổi đã phát lộbản chất khổ của sự vật.
Loại khổ thứ ba là nền tảng cho hai dạng
đau khổ trước và biểu hiện của nó chính là tâm và thân ô nhiễm của chúng ta. Nó
được gọi là khổ thâm nhập khắp cùng vì nó thâm nhập hay ảnh hưởng đến tất cả
các loạichúng sinh trong luân hồi và do ngũ uẩn gây nên, vì vậy nó là nền tảng
của đau khổ trong hiện tại và gây ra đau khổ trong tương lai. Không có cách nào
tránh được loại khổ này, ngoại trừ bằng cách chấm dứt sự tái sinhliên tục.
Đây là ba loại khổ nên được nhận diện từ
ban đầu. Như thế, không phải chỉ những cảm thọ được xem là khổ mà ngay cả những
hiện tượng
bên ngoài và bên
trong, dựa trên đó mà những cảm thọ này phát sinh, cũng được xem là khổ; những
dạng tâm thức và những trạng tháitâm thức đi kèm với cảm thọ cũng được xác định
là khổ.
Nguồn gốc của những đau khổ này là gì? Dựa
vào đâu mà khổ phát sinh? Nguồn gốc thứ nhất là nghiệp và nguồn gốc thứ nhì là
phiền não; đây là chân đế thứ nhì trong tứ diệu đế; nguồn gốc thật sự của khổ.
Nghiệp, hay hành động, đề cập đến những hành động ô nhiễm của thân, ngữ và ý. Từ
quan điểm của bản chất hay thực thể, các hành động gồm có ba loại: đạo đức, vô đạo
đức và trung hoà. Những hành động đạo đức là những nghiệp mang đến những quả vừa
ý và tốt đẹp. Những hành động vô đạo đức là những nghiệp mang đến những quả đau
khổ và tiêu cực.
Ba phiền não chính là si mê, tham ái và
sân hận. Chúng gây ra nhiều loại phiền não khác như ghen ghét và ác cảm. Để chấm
dứt những nghiệp hay hành động là nguyên nhân của khổ, điều cần thiết là phải
chấm dứt những phiền não, tức là những nguyên nhân của nghiệp này. Vì vậy, giữa
nghiệp và những phiền não, nguồn gốc chính của khổ chính là phiền não.
Khi ta tự hỏi những phiền não có thể loại
bỏ được hay không, ta đã quan tâm đến diệu đế thứ ba, tức diệt đế. Nếu những
phiền não có sẵn trong bản tính của tâm thì ta sẽ không thể nào loại bỏ chúng.
Thí dụ, nếu sân hận thuộc về bản tính của tâm, thì bất cứ lúc nào tỉnh thức ta
cũng sân hận, nhưng điều này hiển nhiên là không đúng. Đối với sự tham ái ta cũng
lý luậntương tự. Do đó, bản tính của tâm và ý thức được xem là không bị ô nhiễm
bởi những ô trược. Các ô trược có thể dễ bị loại bỏ và tách biệt khỏi tâm cơ bản.
Điều hiển nhiên là những tâm thái tốt
mâu thuẫn với những tâm thái xấu. Thí dụ, tình thương và sự giận dữ không thể
nào nảy sinh cùng lúc trong cùng một người. Khi ta đang giận một đối tượng, ta
không thể thương yêu đối tượng này trong cùng lúc; tương tự như thế, khi ta đang
cảm thấythương yêu, ta không thể giận dữ trong cùng một lúc. Điều này cho thấy
rằng hai loại tâm thức này khai trừ và mâu thuẫnvới nhau. Do đó, khi ta tập
quen với một tâm thái, tự nhiên tâm thái trái ngược sẽ dần dần yếu đi. Đây là
lý do vì sao qua việc thực hành và phát triển lòng từ và bi – mặt tốt của tư tưởng-
mặt xấu sẽ tự động giảm bớt.
Bằng cách này, ta có thể khẳng định rằng
những nguồn gốc của khổ có thể được loại bỏdần dần. Với sự hoàn toàn hủy diệt
của những nguyên nhân tạo khổ, ta có diệt đế. Đây là sự giải thoátcuối cùng – đích
thực, an lạcvĩnh cữu và cứu độ. Đây là chân đế thứ ba của tứ diệu đế.
Ta nên tu tập
theo con đường nào để đạt đượcdiệt đế này? Vì những lỗi lầm bắt nguồn từ tâm,
sự đối kháng phải được phát sinh trong tâm thức. Quả thật, ta cần hiểu biết sự
hiện hữutối hậu của vạn pháp, nhưng điều quan trọng nhất là biết được chân tướngtối hậu của tâm.
Trước tiên, ta cần phảinhận thức một
cách mới mẽ, trực tiếp, hoàn toànbất nhị nguyên về bản tínhtối hậu của tâm một
cách chính xác; đây là con đường thấy (kiến đạo). Giai đoạn kế tiếp là trở nên
quen thuộc với nhận thức này; đây là con đườngthiền định (tu tập). Trước hai
giai đoạn này, điều thiết yếu là đạt đượcan định trong thiền định gồm hai phần,
tức là sự hợp nhất của định và huệ. Trước điều này, nói chung, để có được một
tâm thức đầy trí huệ vững mạnh, điều thiết yếu trước tiên là phát triển sự an định
của tâm, gọi là định (tĩnh trụ).
Đấy là những giai đoạn của con đường, diệu
đế thứ tư, cần thiết để thành tựuchân đế thứ ba, tức sự chấm dứt hai chân đế đầu,
khổ và nguồn gốc của khổ. Tứ diệu đế là cấu trúc cơ bản trong tư tưởng và thực
hành của Phật pháp.
Câu hỏi: Qua cái nhìn phiến diện, dường
như có sự khác biệt giữa nguyên lý diệt dục trong Phật giáo và sự quan trọng ở
Tây phương là đời sống phải có mục đích, ngụ ý rằng sự ham muốn là điều tốt.
Trả lời: Có hai loại ham muốn: Một loại
thì phi lý và hòa lẫn với những phiền não. Loại thứ hai là loại mà ta thấy những
gì tốt là tốt và cố đạt được nó. Loại ham muốn thứ nhì là đúng đắn và nhờ đó, một
hành giả dấn thân vào sự tu tập. Tương tự như vậy, sự mưu cầu về tiến bộvật chất,
dựa trênnhận thức rằng nó có thể phụng sựnhân loại và vì vậy đó là một điều tốt,
cũng là nhận thứcđúng đắn.
Ghi chú : Trên đây là bài dịch từ trang
21-25 trong quyển ’Kindness, Clarity, and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ
14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications, www.snowlionpub.com.
Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng ngữ sang Anh ngữ và cùng hiệu đính với Elizabeth
Napper. Nhà xuất bản Motilal Banarsidass Publishers Private Limited ấn hành tại
Delhi năm 1997, và Snow Lion Publications ấn hành tại New York năm 1996, ấn bản
thứ 12.
Xin hồi hướng mọi công đức đến sự toàn
giác của tất cả chúng sinh. Mọi sai sót là lỗi của người dịch. Quan Âm Thiền Phật
Học Viện, Ani Lozang Chophel, Lozang Ngodrub, Như-Ý Liên-Hoa dịch và hiệu đính
tại Brisbane, Queensland. Tài liệu phân
phát nhân dịp Geshe Lobsang Jamyang thuyết
giảng về đề tài trên tại Chùa Linh Sơn, 89 Rowe Terrace, Darra Queensland, vào
ngày 7 tháng 7 năm 2007.