Tư Tưởng Duy Tâm Trong Kinh Lăng-già

TƯ TƯỞNGDUY TÂM
TRONG KINH LĂNG-GIÀ

Thích Nguyên Sĩ

thien hanhthien hanh1. DẪN NHẬP
Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể NhậpChánh Pháp Lăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923) được ghi chép như sau:
Nanjō. 375:
इत्यार्यसद्धर्मलङ्कावतारो नाम महायानसूत्रं सगाथकं समाप्तमिति॥
ityāryasaddharmalaṅkāvatāro nāma mahāyānasūtraṃ sagāthakaṃ samāptamiti ||
(Kết thúc chương chỉnh cú của bản kinhđại thừa tên là Thể nhậpchánh pháp Lankā) [1].

Tư tưởngcốt lõi của Kinh Lăng-già chính là đạo lýduy tâm (cittamātra), toàn bộ nội dung của bản kinh tập trung vào việc giải thíchý nghĩa của tâm và duy tâm, đồng thời trình bày, phê phán mọi vấn đề của Phật giáo và ngoài Phật giáo dưới ánh sáng của tư tưởng này. Kinh vận dụng nguyên lý duyên khởi để xem xét các vấn đề trong cuộc sống của thế gianxuất thế gian, qua hệ thốngnhận thức gọi là tâm-ý-thức (cittamanovijñāna). Đây là giáo lý căn bản của trường phái Du-già (yogācāravāda) thể hiện qua năm yếu tố của nhận thức gồm danh (nāma), tướng (nimitta), biến kế (saṃkalpa), chánh trí (samyajjñāna) và chân như (tathatā).

Kinh Lăng-già một mặt xác định vai trò của nhận thức trong việc hiển thị thông tin về đời sốngcon người, cũng như duy trìtiếp diễn dòng tương tục của đời sống ấy qua những hoạt động của nó. Mặt khác, kinh cũng cho thấy khả năng tích cực của nhận thức trong việc tự chuyển hóa mình, tùy thuận với chân như, tức tánh viễn lydanh tướng do nó biểu hiện, bản chấttuyệt đối của mọi pháp duyên khởi, để thể hiệnđời sốnggiải thoát, đem lại an lạcvĩnh viễn, lợi íchthánh thiện cho mình và người.

Giáo lý về Duy tâm đúng ra sẽ có hai nội dung chính gồm: tâm là gì và duy tâm là thế nào. Trong phần tâm là gì, sẽ gồm chức năngvận hành, trạng tháivận hànhlãnh vựcvận hành của tám thức. Tuy nhiêngiới hạncho phép, vì thế người viết chỉ khảo sát vào ý nghĩa về duy tâm (cittamātra). Ý nghĩa về duy tâm có hai phương diệnphương diện thường nghiệm và phương diện siêu nghiệm.

2.1. PHƯƠNG DIỆN THƯỜNG NGHIỆM
Tâm là một hệ thốngphản ảnh thông tin về mọi sự vật tiếp nhận, mà nó còn sử dụng thông tin ấy để tái hiện hình ảnh của sự vật qua nguyên lý duyên sinh. Những gì biểu hiện ở trong tâm đó là danh (nāma) và tướng (nimitta), khi y tha khởi (paratantra-svabhāva) hoạt động cho ra ấn tượng về sự vật; vikalpa hoạt động, tâm dấy lên danh và tướng; bộ ba gồm căn-trần-thức (trisamgati) tạo ra xúc (sparśa) và nó sẽ phát sanh ra nhận thức (tưởng) cùng với tâm lý (thọ) của con người, tức là tướng được kí hiệu bằng một tên gọi (danh). Cấu trúc nhận thức (vikalpa) cho chúng ta biết danh, tướng và sự vật; danh và tướng đó do hệ thống căn-cảnh-thức biểu hiện ra, chính chúng không phải là sự vật.

Vì vậy, những gì được chúng ta gọi là nhận biết chỉ là thông tin biểu hiện ở trong tâm, hệ thốngnhận thức này là sự tập hợp của duyên khởi được biểu hiện ra bằng hai tướng gọi là sở tướng (lakṣya-tướng phần) và năng tướng (lakṣaṇa/vikalpa-kiến phần). Trong đó, những gì được nhận biết gọi là sở tướng và chủ thể nhận biết đối tượng là năng tướng. Ấn tượng về hai phần này chỉ cho đối tượng và chủ thể nhận thức còn riêng về sự vật thì bản thân nó không có hai phần này.

Đức Phật xác định rằng, kiến thức về tồn tại không phải chính bản thântồn tại, tất cả những gì con ngườinhận biết về tồn tại như một hiện hữucá biệt (svabhāva) cùng hình tướngtính chất của nó (lakṣaṇa), chúng chỉ là những ấn tượngtồn tạiảnh hiện trong hệ thốngnhận thức, đó là những kiến thức đều do tự tâm biểu hiện. Như vậy, về mặt nhận thức, những gì con ngườighi nhận về mọi sự vật, chúng chỉ là những thông tin kiến thức về các sự vật ấy, chứ không phải chính bản thân sự vật. Lăng-già xác định ý nghĩa này qua định cú svacittadṛṣyamātrāḥ sarvadharmāḥ (mọi pháp chỉ là cái được tự tâm biểu hiện) và nó chỉ là tâm.

N.62:
svacittadṛśyagocarānabhijñā bāhyacittadṛśyagocarābhiniviṣṭāḥ | te saṃsāragaticakre punar mahāmate caṃkramyante || punar aparaṃ mahāmate anutpannān sarvadharmānatītānāgatapratyutpannās tathāgatā bhāṣante | tat kasya hetoḥ? yaduta svacittadṛśyabhāvābhāvāt sadasator utpattivirahitatvān mahāmate anutpannāḥ sarvabhāvāḥ
“Tham đắm cái ngoại cảnh mà vốn là cảnh giới hiện trong tự tâm, này Đại Huệ! họ lại lăn lóctrong vòng quay của những lối mòn sanh tử. Tham đắm cái ngoại cảnh mà vốn là cảnh giới hiện trong tự tâm. Này Đại Huệ! họ lại lăn lóctrong vòng quay của những lối mòn sanh tử. Lại nữa, Đại Huệ! Chư vị Như lai trong quá khứhiện tạivị lai đều nói hết thảy mọi pháp là vô sanh. Tại sao? này Đại Huệ, đó là vì, không có một thểtồn tại nào của những cái do tự tâm biểu hiện, không có một sự phát sinh nào từ có hoặc không, nên hết thảy mọi pháp đều vô sanh” [2].

N.112:
kṛdṛṣṭilakṣaṇapatitāśayānāṃsvacittadṛśyamātrānavadhāriṇāṃ hetupratyayakriyotpattilakṣaṇābhiniviṣṭhānāṃ nivāraṇārthaṃ māyāsvapnasvabhāvalakṣaṇān sarvadharmān deśayāmi| ete bālapṛthagjanāḥ kudṛṣṭilakṣaṇāśayābhiniviṣṭā ātmānaṃ paraṃ ca sarvadharmā yathābhūtāvasthānadarśanādvisaṃvādayiṣyanti | tatra yathābhūtāvasthānadarśanaṃ mahāmate sarvadharmāṇāṃ yaduta svacittadṛśyamātrāvatāraḥ
“Có tâm trí bị đọa lạc trong các hình thứcác kiến, không hiểu chúng chỉ là những sở kiến hiện trong tự tâm, mà chỉ cho họ thấy hình tướngtự tính của hết thảy các pháp đều như huyễn mộng, để họ xa lìa những hình tướngtự tính của sự vật, ngăn chặn họ tham đắm các hình tướnghoạt độngsanh khởi của nhân duyên. Những kẻ phàm phu này một khi tâm trí tham đắm thiết kế các hình tướng bằng ác kiến, họ sẽ vì không thấy được trạng tháichân thật của hết thảy các pháp mà tự lừa dối mình và ngưới khác. Ở đây, này Đại Huệ! Thấy được trạng tháichân thật của hết thảy các pháp tức là hiểu rằng chúng chỉ là những sở kiến hiện trong tự tâm” [3].

Tham chiếu Triṃśikā-v.17 of Vasubandhu:
vijñānapariṇāmo ’yaṃ vikalpo yad vikalpyate |
tena tan nāsti tenedaṃ sarvaṃ vijñaptimātrakam || 17 ||
玄奘 T31n1586_p61a2-3.
是諸識轉變 分別所分別
由此彼皆無 故一切唯識
“Sự chuyển biến của thức này là cấu trúc nhận thức. Cái gì được cấu trúc bởi nó cái đó không có thật, tất cả cái này chỉ là hiển thị của thức”.

Về mặt tái hiện, những hoạt động của tâm khi bị thúc đẩy bởi khát vọng hạnh phúcsinh tồn theo một ngã kiến do mạt-na thủ trước, chúng sẽ chuyển biến các dữ liệu được lưu trữ trong A-lại-da thành một định mệnh và đường đi của con người. Cuộc đời là một mô hình do tâm tái hiện, ý nghĩa này được Lăng-già mô tả qua cú nghĩa tribhavacittamātra (ba cõi chỉ là tâm).

N.208:
mama tu mahāmate na nityā nānityā | tat kasya hetoḥ? Yaduta bāhyabhāvānabhyupagamātribhavacittamātropadeśādvicitralakṣaṇānupadeśān na pravartate na nivartate mahābhūtasaṃniveśaviśeṣaḥ | na bhūtabhautikatvādvikalpasya dvidhā pravartate grāhyagrāhakālakṣaṇatā | vikalpasya pravṛttidvayaparijñānādbāhyabhāvābhāvadṛṣṭivigamāt svacittamātrāvabodhādvikalpo (N.209) vikalpābhisaṃskāreṇa pravartate nānabhisaṃskurvataḥ |
“Này Đại Huệ, đối với Như lai, các pháp chẳng phải thường hayvô thường. Tại sao? Vì rằng Như Lai không nắm bắt ngoại cảnh, Như lai dạy ba cõi chỉ là tự tâm, không dạy các thứ hình tướngsai biệt, nên sự sai biệt giữa các hiện tượng của các đại chủng không khởi lên, không biến mất, sự nhận biết rằng chủ thể và đối tượng của cấu trúc nhận thức không khởi lên theo hai phần từ tính chấtđại chủng và các sản phẩm do đại chủng tạo ra. Nhờ hiểu rõhiểu rõ hai phần biểu hiện ấy của cấu trúc nhận thức, nhờ viễn ly cái thấy có không đối với ngoại cảnh, và nhờ giác ngộtrạng thái chỉ là tự tâm, nên cấu trúc nhận thứcphát khởi bằng chủ ý cấu trúc, chứ không phải do vô ý” [4].

Tùy theo ý chấp thủấn tượng sắc hoặc thọ nào là tự ngã của mình, khối năng lượng tới hạn, được tích lũy trong hệ thốngnhận thức qua hoạt động, nó chuyển hiện thànhđịnh mệnhtương ứng trong các con đường; và các con đường này thường gọi là ba cõi, sáu đường hay chín hữu. Kinh Lăng-già mô tả sự chuyển hiện này là tâm hiện thànhthân thểtài sản và trú xứ, không những thế, bằng năng lực tái hiện kiến thức, tâm tiếp tục tái hiện những cảnh đời được định hướng bởi sự chấp thủkiến thức về tự ngã của nó, trong dòng lưu chuyển bất tận của vòng quay sanh tử và tử sanh. Nghĩa này được xác định qua định cú dehabhogapratiṣṭhānaṃ cittamātram (thân thể, tài sản, và trụ xứ chỉ là tâm).

N. 62:
|dehabhogapratiṣṭhāgatisvabhāvalakṣaṇaṃ mahāmate ālayavijñānaṃ grāhyagrāhakalakṣaṇena pravartamānaṃ bālā utpādasthitibhaṅgadṛṣṭidvayapatitāśayā utpādaṃ sarvabhāvānāṃ sadasator vikalpayanti | 
“Đại Huệ! Thân thểtài sản và trú xứ chính là tự thể và hình tướng ở trong các cõi, hiện hành bởi hình tướngnăng thủsở thủ của thức A-lại-da. Nhưng các phàm phu, những kẻ có đầu óc bị đọa lạc vào hai mặt của các quan điểm về sanh trú diệt, họ cho nó là sự phát sinh từ tính có hoặc không của tất cả các pháp” [5].

N.70:
samāropāpavādo hi cittamātre na vidyate |
dehabhogapratiṣṭhābhaṃ ye cittaṃ nābhijānate |
samāropāpavādeṣu te caranty avipaścitaḥ || 2.135 ||
“ở trong duy tâm
không hề có sự
áp đặt, bác bỏ.
Những ai mù quáng
không hiểu rõ tâm
là cái hiển hiện
thân thểtài sản,
cũng như trú xứ
họ đi lạc vào
cái sự áp đặt
hoặc sự bác bỏ”//135// [6].

Tham chiếu Triṃśikā-v.2b,3.19 of Vasubandhu:
tatrālayākhyaṃ vijñānaṃ vipākaḥ sarvabījakam || 2 ||
asaṃviditakopādisthānavijñaptikaṃ ca tat |
sadā sparśamanaskāravitsañjñācetanānvitam || 3 ||
karmaṇo vāsanā grāhadvayavāsanayā saha |
kṣīṇe pūrvavipāke ’nyadvipākaṃ janayanti tat || 19 ||
玄奘 T31n1586
初阿頼耶識 異熟一切種 (p_60b4, kệ 2b)
不可知執受 處了常與觸
作意受想思 相應唯捨受 (p_60b5-6, kệ 3)
由諸業習氣 二取習氣倶
前異熟既盡 復生餘異熟 (p_61a10-11, kệ 19)
“Trong đó, dị thục là thức có tên là a-lại-da, nhất thiết chủng (cái chứa hạt giống của tất cả) (2b). Và nó là cái có tiềm năng tiếp nhậnduy trì không thể biết, và liễu biệt xứ không thể biết. Thường tương ưng với xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư (3). Khi dị thục trước diệt mất thì các tập khí của nghiệp cùng với nhị thủtập khí khiến sinh ra dị thục khác đó” (19).

2.2. PHƯƠNG DIỆN SIÊU NGHIỆM
Lăng-già cho thấy, tâm vốn là pháp duyên sinh mà bản chất thực sự của nó luôn luôn viễn ly mọi ấn tượng, ngôn ngữtâm sở mà nó biểu hiện. Nếu tùy thuận với sự thật này, con người không nhận lầm thông tin là sự vật, biết năng tướng và sở tưởng chỉ là hình ảnh do tự tâm biểu hiện. Nơi đây họ không vướng mắc, không chấp thủ chúng, họ vượt qua mọi tâm hànhngôn ngữ (ngôn ngữ đạo đoạn-tâm hành xứ diệt), để thể nhập vào trạng tháichân thật của tâm. Lăng-già gọi trạng thái này là Duy tâm (cittamātra), đó là trạng thái của bình yên và sáng suốt, cội nguồn của giải thoáttuệ giác. Duy tâm trong nghĩa này còn được gọi là tâm nhất cảnh tánh (ekāgratā), vô tướng, vô phân biệt, viên thànhthật tánh, vô sanh, tánh không, Như Lai tạng. Nó là trạng tháivô tưởng, vắng lặngsáng suốt của tâm, nền tảng cho đời sốnggiải thoát. Tự thân thể nhập trạng tháichân thật này là siêu thoát khỏi dòng sinh tử của thế gian, chứng nghiệmNiết bàn, phát huy tuệ giác, và từ bi.

N.88:
|punar aparaṃ mahāmate svacittadṛśyamātrānusāritvād vividhavicitralakṣaṇabāhyabhāvābhāvād vāgvikalpaḥ paramārthaṃ na vikalpayati |tasmāt tarhi mahāmate vāgvicitravikalparahitena te bhavitavyam || 
“Lại nữa Đại Huệ, vì đệ nhất nghĩatrạng tháichân thật của các pháp chỉ do tự tâm biểu hiện, trạng thái không có đủ thứ hình tướngsai biệt được xem là những thực thểtồn tại ngoài tâm, nên ngôn ngữtư duy không mô tả được đệ nhất nghĩa. Do đó, Đại Huệ! ông nên viễn lyngôn ngữ và đủ thức tư duy sai biệt” [7].

N.169: kathaṃ hy abhāvo bhāvānāṃ kurute samatāṃ katham || 3.56 ||
yadā cittaṃ na jānāti bāhyamādhyātmikaṃ calam |
tadā tu kurute nāśaṃ samatācittadarśanam || 3.57 ||
punar api mahāmatir āha| yatpunaridamuktaṃ yadā tvālambyamarthaṃ nopalabhate jñānaṃ tadā vijñaptimātravyavasthānaṃ bhavati| vijñapter grahyābhāvād grāhakasya apy agrahaṇam bhavati |
Trạng tháibình đẳng (56)?
Khi nào tự tâm
Không còn nhận thấy
sự xao động nào
trong tâm ngoài cảnh,
bấy giờ nó sẽ
biến sự lắng diệt
trở thànhtrạng thái
của sự bình đẳng
nội tâm biểu hiện(57) 
Bồ tátĐại Huệ lại hỏi: Đức Thế tôn đã dạy điều này: “Khi trí không nắm bắt đối tượng sở duyên thì nó an trú trong duy thức, vì không có sở thủ của thức nên năng thủ không còn nắm bắt” [8].

Tham chiếu Triṃsikā-v. 28
yadālambanaṃ vijñānaṃ naivopalabhate tadā |
sthitaṃ vijñānamātratve grāhyābhāve tadagrahāt || 28 ||
玄奘 T31n1586_61b14-15.
若時於所縁智都無所得
爾時住唯識 離二取相故
Chỉ khi nào trí không nắm bắt sở duyên, bấy giờ nó trụ trong duy thức tánh, trạng tháikhông tồn tạisở thủ, vì không còn nhận thứcsai lầm về nó. (28)

Đoạn: “yadā tvālambyamarthaṃ nopalabhate jñānaṃ tadā vijñaptimātravyavasthānaṃ bhavati vijñapter grahyābhāvād grāhakasya apy agrahaṇam bhavati” của Lăng-già rất giống tụng triṃsikā 28 Vasubandhu không những về ý nghĩa mà còn cả cách dùng từ.

N. 170:
bhagavān āha| na hi tan mahāmate evamajñānaṃ bhavati | jñānam eva tan mahāmate, nājñānam | na caitatsaṃdhāyoktaṃ mayā| yadā tvālambyamarthaṃ nopalabhate jñānaṃ tadā vijñaptimātravyavasthānaṃ bhavatīti | kiṃ tu svacittadṛśyamātrāvabodhāt sadasator bāhyabhāvābhāvājjñānam apy arthaṃ nopalabhate | tadanupalambhājjñānajñeyayor apravṛttiḥ | vimokṣatrayānugamāj jñānasyāpyanupalabdhiḥ| 
“Đức Thế tôn dạy: Đại Huệ: Cái trí như Như lai đã nói hẳn không thể là sự vô tri. Nó chính là trí tuệ chứ không phải sự vô tri. Như lai không có ẩn ý gì khi nói điều này: “Khi trí không nắm bắt đối tượng sở duyên thì nó an trú trong duy thức”. Nhưng vì biết rõ đối tượng sở duyên chỉ là sở kiến hiện trong tự tâm, vì không hề có sự thể ấy ở bên ngoài, nên trí cũng không nắm bắt đối tượng cho là có hay không. Nhờ không vin vào nó, nên năng tri và sở tri không phát khởi. Nhờ tùy thuận với ba giải thoát, nên trí tuệ không có sự nắm bắt” [9].

Tham chiếu Triṃsikā-v. 29
acitto ’nupalambho ’sau jñānaṃ lokottaraṃ ca tat |
āśrayasya parāvṛttir dvidhā dauṣṭhulyahānitaḥ || 29 ||
玄奘 T31n1586_61b18-19.
無得不思議是出世間智
捨二麁重故 便證得轉依
Điều này là vô tâm, vô đắc và đó là trí xuất thế gian. Nhờ xả bỏ hai thứ thô trọng, nên có sự chuyển y. (29)

Trên mặt siêu nghiệm thể nhậpchân tướng (jātilakṣaṇā) của thức, Lăng-già gọi đây là chuyển y (āsrayaparavṛitti), tức là chuyển trạng thái thác loạn của tâm bị ô nhiễm bởi chướng ngạiphiền nãosở tri chướng, trở vềtrạng tháitrong sángchân thật của nó. Nhân tố để khởi động quá trình này chính là mạt-na, tùy thuậnchân tướng của tâm, nó không nắm bắt ấn tượngsở duyên hiện trong tự tâm như là thực thểcá biệttồn tại ngoài tâm. Bấy giờ, cả năng tướng và sở tướng không còn tồn tại, mạt-na hiện chứngtrạng tháivô tướng của tâm và được gọi là vô phân biệt trí (nirvikalpajñāna), hay bình đẳng tánh trí (samatājñāna). Nhờ năng lực tịnh hóa và sự định hướng chân thật của vô phân biệt trí, các tập khíô nhiễm thuộc nhận thức (sở tri) và tâm lý (phiền não) được lưu trữ từ vô thỉ bị loại bỏ, tâm an trú trong trạng tháichân thật của nó mà phát huy trí lựchiển thịảnh tượngnhư huyễn của mọi pháp, trên con đườngthực hành Bồ-tát hạnh để đạt đếnquả vị Phật.

N.42:
|mahākaruṇopāyakauśalyānābhogagatena mahāmate prayogena sarvasattvamāyāpratibimbasamatayā anārabdhapratyayatayā adhyātmabāhyaviṣayavimuktatayā cittabāhyādarśanatayā animittādhiṣṭhānānugatā anupūrveṇa bhūmikramasamādhiviṣayānugamanatayā traidhātukasvacittatayā adhimuktitaḥ prativibhāvayamānā māyopamasamādhiṃ pratilabhante | 
“Đại Huệ! Khi công hạnhđạt đến mức tự nhiên nhờ thành thạo các phương tiện của đại bi, họ tùy thuận với sự an trú trong vô tướng, bằng trạng thái xem chúng sanhnhư huyễn, như ảnh, không nắm bắt các duyên, trạng thái thấy ngoại cảnhtự tâm, thanh thoát với các sự kiện ở trong cũng như ngoài tâm, rồi dần dần thấu hiểu một cách xác tín ba cõi chỉ là tự tâm, bằng cách thuận hành cảnh giớithiền địnhcảnh giới trong từng cấp bậc của các quả vị Bồ-tát và đạt đượcchánh định như huyễn” [10].

3. LỜI KẾT
Đạo lýduy tâm như được trình bày ở trên cho thấy, Lăng-già không xem tâm là một nguyên tốvật chất hay tinh thần tạo ra vũ trụ. Duy tâm (cittamātra) là từ viết tắc của hợp từ bahuvrīhi “Duy tự tâmsở kiến (svacittadṛṣyamātra)” nghĩa là, “chỉ là những cái được tự tâm nhìn thấy” hay “chỉ là những cái được biểu hiện trong tự tâm”. Trong đó, ta thấy rằng tự tâm (svacitta) chỉ cho hệ thốngnhận thức của mỗi người, gồm ba trạng tháichuyển tướng (pravṛttilakṣaṇa), nghiệp tướng (karmalakṣaṇa), và chân tướng (jatilakṣaṇa); với hai chức năng gồm hiện thức (khyātivijñāna) và phân biệt sự thức (vastuprativikalpavijñāna). Định nghĩa này cho thấy tâm không phải là một tự thể cá biệt (svabhāva), một bản nguyên (prakṛti), linh hồn (pudgala) hay bản ngã (ātman) sinh ra mọi pháp như những người theo thuyết duy tâmtuyệt đối (absolute idealism) đã nhào nặn và tưởng tượng ra.

Như trên đã đề cập, tùy theo ý chấp thủấn tượng sắc hoặc thọ nào là tự ngã của mình, khối năng lượng được tích lũy trong hệ thốngnhận thức qua hoạt động của nó, chuyển hiện thànhđịnh mệnhtương ứng trong các con đườngtương ứng gọi là ba cõi, sáu đường hay chín hữu. Lăng-già mô tả sự chuyển hiện này là tâm hiện thànhthân thểtài sản và trú xứ, không những thế, bằng năng lực tái hiện kiến thức, tâm tiếp tục tái hiện những cảnh đời được định hưởng bởi sự chấp thủkiến thức về tự ngã của nó trong dòng lưu chuyển bất tận của sanh tử. Tùy theo cách thức con người xử lý những gì mà hệ thốngnhận thức đã ghi nhận, thì nó sẽ biểu hiện và tác thành cuộc sống như thế đó. Vai trò trong việc định hình cùng tác thànhđời sống, được Lăng-già xác định và mô tả rất rõ, những ý nghĩa này được người viết ghi chú và cước dẫn đầy đủ ở các mục trên.

Chú thích:
* Tỳ kheo Thích Nguyên Sĩ, Tăng sinh Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh, khóa XV, khoa Phật học Sanskrit.[1] Dẫn theo bản Devanāgarī biên tập bởi Nanjō. Phiên âm ký hiệu la-tinh theo nguồn Sanskrit Buddhist Canon. Bản Việt Thể NhậpChánh Pháp Lăng-già (1), Nguyên Giác dịch & lược giải. Nxb. Hồng Đức 2023; tr.599.[2] Thể NhậpChánh Pháp Lăng-già (1), Nguyên Giác dịch & lược giải. Nxb. Hồng Đức 2023; tr.83-84.[3] Thể NhậpChánh Pháp Lăng-già (1), Nguyên Giác dịch & lược giải. Nxb. Hồng Đức 2023; tr.135.[4] Thể NhậpChánh Pháp Lăng-già (1), Nguyên Giác dịch & lược giải. Nxb. Hồng Đức 2023; tr.254.[5] Thể NhậpChánh Pháp Lăng-già (1), Nguyên Giác dịch & lược giải. Nxb. Hồng Đức 2023; tr.84.[6] Thể NhậpChánh Pháp Lăng-già (1), Nguyên Giác dịch & lược giải. Nxb. Hồng Đức 2023; tr.92.[7] Thể NhậpChánh Pháp Lăng-già (1), Nguyên Giác dịch & lược giải. Nxb. Hồng Đức 2023; tr.109.[8] Thể NhậpChánh Pháp Lăng-già (1), Nguyên Giác dịch & lược giải. Nxb. Hồng Đức 2023; tr.205.[9] Thể NhậpChánh Pháp Lăng-già (1), Nguyên Giác dịch & lược giải. Nxb. Hồng Đức 2023; tr.206.[10] Thể NhậpChánh Pháp Lăng-già (1), Nguyên Giác dịch & lược giải. Nxb. Hồng Đức 2023; tr.63.

Tài liệutham khảo:
The Laṅkāvatārasūtra, edited by Bunyiu Nanjio, 1923, Kyoto (梵文入楞伽經, 南絛文雄校訂, 大谷大學. v. 1).
1. Saddharma-laṅkāvatārasūtra, edited by P.L. Vaidya. — Mithila Insttitute of PostGraduate Studies and Research in Sanskrit Learning, 1963. — (Buddhist Sanskrit texts; no. 3).
2. Thể NhậpChánh Pháp Lăng-già, Nguyên Giác dịch & lược giải. Nxb. Hồng Đức 2023.
3. Taishō Shinshū Daizōkyō 大正新脩大藏經.
4. https://www2.hf.uio.no/polyglotta/index.php?page=fulltext&vid=236&view=fulltext