NGUYÊN LÝ VỀ VẤN ĐỀ NIỆM PHẬT VÃNG SANH

PHÚ NÂU LA TÙNG THƯ 12

Nguyên Lý Về Vấn Đề

NIỆM PHẬT VÃNG SANH

Nguyên tác:  Thái Hư Đại Sư

Dịch giả: Thích Chánh Lạc

Nhà Xuất Bản Phú Lâu Na

Tại Hoa Kỳ tái bản 1992-2536

Kinh Thanh Tịnh Giác nói:

“Nếu người nào đối với pháp môn Tịnh Độ nghe như không nghe, biết như không biết, tất kẻ ấy vừa ở ba đường ác ra hoặc tội chướng quá nặng nên không sanh được lòng tin.

Như Lai nói kẻ ấy kém phước duyên trên đường giải thoát.  Nếu người nào khi nghe pháp môn Tịnh Độ liền thương mừng rơi lệ, cảm động đến mức nghẹn ngào, nên biết kẻ ấy đời trước đã từng nghe, tin và tu tập pháp môn này.  Như họ chánh niệm tu hành, tất sẽ được vãng sanh.”

Đại Tập Kinh, Phẩm Hiền Hộ:

Đức Thích Ca nói với pháp hội:

“Người cầu Vô Thượng Bồ đề nên tu niệm Phật Tam muội.”  Rồi Ngài nói bài kệ:

Dịch nghĩa:

Nếu người xưng niệm Phật A Di Đà

Gọi đó là Vô Thượng thâm Diệu Thiền

Lúc chí tâm tưởng tượng thấy được Phật

Chính là đắc pháp bất sanh bất diệt.

 

Lược Thuyết Về Pháp Môn Vãng Sanh AN-LẠC-ĐỘ

 

Pháp môn niệm A Di Đà Phật để cầu sinh về thế giới AN LẠC (Tịnh Độ) là một pháp môn hay nhất, tiện nhất, mau và dễ đạt tới mục tiêu chuyển mê thành ngộ, hết khổ được vui nhất trong tất cả những pháp môn tu hành của Phật Giáo.

 

Cốt tủy của pháp môn ấy được cô đọng vào 3 điều kiện:

 

TÍN, NGUYỆN và HẠNH

 

A. TÍN nghĩa là hiểu biết tường tận, không còn mảy may nghi ngờ, tâm chí chuyên tinh và cương quyết.  Tín chia ra ba loại:

 

– Tin tâm mình

– Tin cõi Phật

– Tin pháp môn

 

1. Thế nào gọi là tin tâm mình?

 

Tức là tin rằng bản tâm chúng ta từ vô thỉ kiếp, tùy duyên lưu chuyển, tiếp nối mãi mãi không bao giờ tiêu diệt.  Tâm ấy từ trạng thái chúng ta sống tới khi chúng ta chết, tuy chết song tâm vẫn còn; rồi lại từ chết đến sống, tuy sống nhưng không phải y nhiên bất biến; có nhân có quả, nhân thành thục phát sinh kết quả, do đó, kiếp sống của chúng ta không phải chỉ ngẫu nhiên xuất hịên một lần rồi thôi mà nó được tiếp nối, dưới nhiều hình thức, vô cùng tận.  Vì thế, chúng ta cần phải cầu một sự an lạc vừa chân thật vùa vĩnh viễn.  Đó là điều tối quan yếu trong kiếp sống của con người.

 

Vì còn nghiệp nên phải đầu thai làm người làm thú… Khi đã có thân lại tạo ra nghiệp mới, cứ thế từ đời nọ qua kiếp kia, chứ không phải một phen chết là chấm dứt, là rũ sạch.  Ấy là một vấn đề cần biết rõ và phải lo nghĩ luôn luôn.

 

Trong đêm dài sinh tử, thăng trầm thay đổi, trôi lăn trong ba nẽo, chìm đắm trong sáu đường mịt mờ, sờ soạng chẳng biết về đâu! Không những thế, chúng sinh trong ba đường ác còn phải chịu những cực hình, như tù đày, cưa xẻ, nấu nướng, khảo tra vô cùng kinh khiếp!  Ai nghe vậy mà không lo lắng, suy tư?  Thân người khó được, nay đã được, Phật Pháp khó gặp khó nghe, nay đã được nghe, thời gian chớp nhoáng qua mau, muôn kiếp một lần.  Bởi thế, chớ lần lửa, chần chờ, phải chuyên tâm niệm Phật để cầu giải thoát sanh tử ngay trong kiếp này.

 

Thứ nữa, chúng ta tin cái Bản nguyên chơn tính trong tâm ta, nghĩa là tin rằng chúng ta vốn có Phật tính và đầy đủ trí huệ đức tướng, viên thường an lạc, tự tại thanh tịnh như chư Phật.  Do đó nếu gặp thiện tri thức chỉ dẫn, quy y Tam Bảo, tin theo pháp môn chân chánh của Phật để tu tập thì chắc chắn sẽ tìm lại được BẢN TÂM.

 

Sau hết, tin rằng: chúng ta từ vô số kiếp đến nay nhất định đã từng làm trời làm người; mười phương chư Phật, chư đại Bồ Tát, Thánh Hiền, phân thân hóa độ, giác ngộ quần sanh, bởi vậy, trong một kiếp nào đó thế nào chúng ta cũng đã có duyên gặp gữ, phụng sự, cúng dường các Ngài, gieo trồng căn lành, nên hôm nay mới có tín tâm, mới có duyên để nghe học Phật Pháp.  Tuy chúng ta mê mờ không thấy không biết, song kỳ thực chư Phật, Bồ Tát luôn luôn hộ niệm cho ta.  Vì thế, chúng ta nên phát tâm kiên quyết, tinh tấn, lập chí dũng mãnh, vững bền trên đường tu học.  Lòng TỪ BI và đức HÙNG LỰC của chư Phật, Bồ Tát trong mười phương bao la vô giới hạn, nhiếp hóa hết mọi căn cơ, nên không một sự tu tập nào mà không có kết quả, không một lời nguyện cầu chính đáng nào mà không được ứng cứu, tiếp độ.  Điều này đã được sách sử chép ghi; xưa nay trong hàng tăng, tục, nam nữ đã có biết bao nhiêu người nhờ sẵn căn lành và siêng tu tịnh nghiệp mà được sanh về Tây Phương Tịnh Độ thật không sao kể xiết!

 

2. Thế nào gọi là tin cõi Phật?

 

Có hai: một là, tin rằng trong quá khứ vô số kiếp trước, đức Phật A Di Đà cũng là một chúng sinh như ta, nhưng Ngài đã bỏ ngôi vua, xuất gia và phát tâm đại bồ đề, lập 48 thệ nguyện rộng lớn, kiên tâm trì chí tu hành trải qua nhiều kiếp nhiều đời.  Nhờ nhân địa như vậy, nên kết quả về y báo thì tạo thành Cực Lạc Tịnh Độ, về Chánh Báo thì chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đầy đủ ba diệu đức: Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, và Vô Lượng Công Đức.  Nệu hợp cả y lẫn chánh báo thì như chúng ta thường gọi là Thế GiớiCực Lạc của đức Phật A Di Đà.

 

Hai là, tin chắc rằng về phía tây của Thế giới Sa Bà do đức Thích Ca Mâu Ni hóa độ, trải qua mười vạn ức cõi Phật, thật có một thế giới vô cùng an lạc do đức A Di đà giáo hóa với sự phụ tá của hai vị đại Bồ Tát là Thế Chí và Quán Âm; đồng thời lại có vô biên Bồ Tát, Thánh Hiền, Tăng Chúng thường tụ hội để nghe đức Phật A Di Đà thuyết pháp.  Đó là những vị đã được đại giải thoát, một mặt tuy vẫn y pháp Phật để tiến tu, nhưng mặt khác lại có thể dùng thần thông diệu dụng, hóa thân đi khắp mười phương để nhiếp hóa những chúng sinh có duyên với Tịnh Độ.

 

Những người đã được sanh về Lạc độ hoàn toàn do Liên-hoa-hóa-sanh, tuyệt đối chấm dứt cảnh ân-ái-thai-sanh.  Và, tùy thuộc lòng tin sâu hay cạn, nguyện lực lớn hay nhỏ, công phu niệm Phật it́ hay nhiều mà những người ấy được ở vào một trong 9 phẩm bậc sau đây: Thượng phẩm có 3, Trung phẩm có 3, và Hạ Phẩm có 3.  Những phàm phu còn nhiều tội lỗi nhưng được vãng sanh sẽ ở vào một trong ba bậc của Hạ phẩm.  Những vị Thánh đã đoạn phiền não, chứng một phần chân lý sẽ ở vào một trong ba cấp của Trung phẩm.  Những vị Bồ Tát đầy đủ trí huệ, từ bi sẽ ở vào một trong ba bậc của Thượng phẩm.  Dưới cấp thấp nhất của Hạ phẩm lại còn có một cấp tên Thiết-liên-nghi-thành, trong đó gồm chứa hết thảy những người tuy được vãng sanh, song tội nghiệp quá nặng nề và lòng tin nguyện hết sức bạc nhược, nên phải trải qua nhiều năm tháng sám ác tu thiện, đoạn trừ nghi hoặc, sinh lòng tin tưởng, rốt cuộc mới được hoa nở, và thấy Phật.

 

Một phen được thấy Phật, liền hưởng cảnh ăn mặc như ý muốn, sống lâu vô lượng, thân tâm tự do tự tại, dạo khắp vô biên quốc độ như chúng ta đi lại trong sân vườn.  Hơn thế, tiếng gió reo, nước chảy, rừng cây, chim hót… mỗi mỗi đều là tiếng thuyết pháp và tất cả Bồ Tát, thánh chúng đều là những thiện hữu tri thức.  Vì Y báo lẫn Chánh báo đều vô cùng an lạc, thiện mỹ, chân thường, và minh tịnh như thế, nên cói tịnh độ của đức Phật A Di Đà còn gọi là cõi Cực Lạc.

 

Điều nên biết là, tuy rằng chúng sinh được vãng sanh về Tịnh độ có chia ra chín phẩm ba cấp khác nhau, nhưng một khi đã về đều vĩnh viễn ly sinh tử luân hềi và cuối cùng đều thành Vô Thượng Giác cả.

 

3. Thế nào gọi là tin Pháp môn? 

 

Chúng ta có thể chia ra ba phần để thuyết minh:

 

a- Tin rằng pháp môn trì niệm danh hiệu Đức Phật A Di đà cầu vãng sanh thế giới AN LẠC là do Đức Bổn Sư Thích Ca nói ra và chính Bồ Tát Di Lặc, A La Hán Xá Lợi Phất cùng Hoàng Hậu Vi Đề Hy v.v… trực tiếp nghe, gồm có các Kinh: Vô Lượng Thọ, A Di Đà, Quán Vô Lượng Thọ Phật.  Ngoài ba kinh chính vừa kể, còn có rất nhiều kinh luận, rải rác trong Đại Tạng khuyên chúng ta tu pháp môn niệm Phật cầu sanh về Tịnh Độ, thật không kể xiết.

 

Khi Đức Phật nói Kinh Vô Lượng Thọ các vị Bồ Tát, La Hán, Chư Thiên, Thần, Người và các phi nhân, hằng hà sa sốm đều phát nguyện cầu vãng sanh; Khi Đức Phật nói Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, Hoàng Hậu Vi Đề Hy thực hành theo và được vãng sanh ngay trong một đời này; Và khi Đức Thích Ca Mâu Ni nói Kinh A Di Đà, vô số chư Phật trong sáu phương đều đồng thanh ca ngợi: tuy ở cõi Sa Bà ác trược, thế nhưng Đức Bổn Sư lại có thể thuyết minh cái pháp môn tiện lợi nhất, đặc thù nhất (pháp môn Tịnh Độ), thật là điều bất khả tư nghì!

 

Xưa nay đã có biết bao nhiêu Tăng, tín đồ nhờ tu theo pháp môn Niệm Phật mà được vãng sanh và cũng đã có vô số các bực Thánh Hiền, Tổ Sư nhờ y vào pháp môn ấy mà mau thành tựu quả Phật.  Do đó, chúng ta càng tin tưởng rằng niệm Phật là một pháp môn vô cùng chân quí.

 

B – Tin rằng pháp môn niệm danh hiệu A Di Đà Phật cầu vãng sanh về Tịnh Độ, từ loại chúng sinh cực ác đến hàng Đẳng Giác Bồ Tát đều có thể và nên tu.  Bởi lẽ, những người sanh về phẩm Hạ Hạ và hóa sanh từ Thíêt liên hoa đều là những chúng sinh đã từng tạo tội ngũ nghịch, mười điều ác, đáng lý họ phải đọa vào ba đường ác (Địa ngục, Ngạ quỉ và Bàng sinh), nhưng nhờ nghe Pháp môn niệm Phật nên sanh lòng tin tưởng, tha thiết cầu về Lạc Độ và quyết tâm tu trì theo mà được vãng sanh.  Những người sanh vào phẩm Trung tức là những chúng sinh đã giữ ngũ giới, tu thập thiện hoặc tu thêm chút ít thiền định nữa; những người này đều đáng lẽ được sanh làm người, làm trời ở Dục giới, nhưng nhờ nghe và tinh pháp môn niệm Phật rồi phát nguyện cầu sanh và tu tập theo nên lại được sanh về Tịnh Độ.

 

Cứ xem trong cuốn Vãng Sanh Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, chúng ta thấy từ các bậc Đại Thánh Hiền đến hàng dâm nữ, đồ tể, chim, thú, cá, trùng đều được vãng sanh, suy ra sẽ tự biết.

 

Ai là người được vãng sanh về phẩm Thượng Trung?  – Đó là các vị Bồ Tát ở Hoan Hỷ địa đến Viễn Hành địa (tức từ sơ địa tới đệ thất địa) tu pháp môn Niệm Phật.

 

Ai là người được sanh vào phẩm Thượng Thượng? – Đó là những vị Bồ Tát thuộc Bất Động địa cho đến Đẳng Giác tu theo pháp môn niệm Phật… Bởi thế, trong kinh Hoa Nghiêm nói Bồ Tát Phổ Hiền cũng phát nguyện cầu vãng sanh Tịnh Độ, xem thế đủ biết.  Vì thế, chúng ta không còn nghi ngờ gì mà không tin rằng niệm Phật là pháp môn rộng rãi nhất, thù thắng nhất.

 

C – Trong thời kỳ tu nhân, đức Phật A Di Đà đã từng phát hoằng nguyện tiếp độ hộ trì hết thảy chúng sinh trong mười phương thế giới, nếu họ thường xưng niệm danh hiệu của Ngài.  Do đó, trong kinh A Di đà đức Thích Ca có nhắc đến vấn đề: “Nếu người nào trì niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà đến trình độ NHẤT TÂM, người ấy liền tự biết mình sẽ được vãng sanh Tịnh Độ.  Và, một khi đã được vãng sanh vị đó sẽ từ từ tiến tu rồi đi thẳng đến Phật vị chứ không còn quanh co lẩn quẩn và không bao giờ bị thoái chuyển nữa.”

 

Cách tu của pháp môn này rất giản dị: chúng ta chỉ cần xưng niệm hoặc tâm niệm trong lòng sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật một cách liên tục thì sẽ đầy đủ vô lượng công đức và thấy được bản tính.  Còn có một cách dễ dàng hơn thế nữa: mỗi buổi sáng, chỉ cần niệm Nam Mô A Di Đà Phật khoảng 30 tới 50 lần cũng quyết định được vãng sanh Tây Phương…Cho nên pháp môn này cũng gọi là Hoành-Siêu-Tam-Giới pháp môn *.  Và một phen đã siêu xuất Tam giới, vị ấy sẽ từ từ tiến thẳng về Phật vị, chứ không còn lên xuống quẩn quanh như những pháp môn khác, nghĩa là không phải bắt đầu từ giữ giới, tu các thiện nghiệp để ra khỏi ba đường ác, sau đó lại tu thiền định để ra khỏi Dục giới, kế tiếp lại do Bát nhã để siêu thoát Sắc và Vô Sắc Giới, chứ chưa có thể vào địa vị chánh-định-tụ của Bồ Tát (theo luận Khởi tín thì: từ Thập Tín về trước là Tà-định-tụ, Thập-Trú trở lên là Chánh-định-tụ).  Ấy là chưa kể trên quá trình tu chứng đó hành giả còn phải nhiều phen thăng trầm sa đọa khó mà lường được.  Vì thế, chúng ta tin rằng chỉ có pháp môn niệm Phật là dễ nhất hay nhất trong vấn đề hết khổ được vui vĩnh viễn.

 

Chú thích:

* Động từ Hoành-siêu phản nghĩa với Thụ-xuất. 

* Hoành-siêu: siêu thoát khỏi một vật theo chiều ngang. 

* Thụ – xuất: thoát ly khỏi một vật theo chiều dọc. 

Ý nói pháp môn niệm Phật là còn đường ngắn nhất đổ ra khỏi luân hồi sanh tử trong Tam giới.

 

B – NGUYỆN

 

1. Nguyện là gì? – Là lòng chí thành, thiết tha, cầu mong được vãng sanh Tịnh Độ.

 

Tuy đã có đủ lòng tin, nhưng nếu không phát nguyện thì cũng như người bệnh, mặc dù đã có sẵn có linh đơn dược và cũng biết rằng nếu uống thuốc ấy vào chắc chắn sẽ lành bệnh, sống lâu; song giả sử bệnh nhân đó, hoặc không muốn mạnh khỏe, sống lâu, hoặc bảo rằng mình không bệnh gì cả, nên không chịu uống thuốc thì làm sao có thể thấy được hiệu quả của thuốc?  Cũng vậy, nếu không muốn lìa khỏi Sa-Bà, thiết tha mong cầu về Cực Lạc, thì tuy đã có lòng tin vẫn chưa có thể gọi là đã thực hành đúng tông chỉ của Tịnh Độ.  Vì thế, chỉ có tín tâm thôi chưa đủ, chúng ta cần phải biết Phát nguyện cầu vãng sanh nữa.  Nguyện cũng có ba phần như sau:

 

2.  Luôn luôn nhàm chán cõi Sa-Bà ô uế, vui thích cảnh Cực Lạc thanh tịnh.

 

Vì nguyện lực đại bi cứu khổ, đức Thích Ca Thế Tôn đã giáng sinh ở Ấn Độ và làm đạo sư của cõi Sa Bà.  Ngài từng đinh minh khuyên dặn chúng ta nên thoát ly Sa-Bà uế độ và cầu sanh về AN LẠC tịnh độ.  Do đó, nếu muốn không cô phụ ơn Phật, muốn được gọi là quy y Phật Pháp, chỉ có cách là thuận và làm theo lời dạy dỗ của Ngài.

 

Sở dĩ chúng ta muốn thoát ly Sa-Bà, vì ba y* (nội y, ngoại y, và cọng y) của cõi ấy đều khổ.  Trái lại, ba y của Tịnh Độ đều thật vui, nên phát nguyện cầu sanh về đó.

 

3. Thế nào gọi là Nội, Ngoại, và Cọng y đều khổ? 

 

Nội y tức chỉ những sưđ khổ nương nơi tự thân mà có, như: đói, lạnh, nóng, mệt mỏi, thèm muốn, già, đau, sống chết, v.v…

Ngoại y là do thiên nhiên giới mà có ra những điều khổ như: gió mưa, sấm sét, băng tuyết, chướng khi, mây mù, gai góc, rắn, rít, cọp, beo, v.v…

 

Cọng y là những điều khổ do xã hội loài người tạo ra cho nhau như: ép buộc, dèm pha, chỉ trích, khuấy phá, chửi mắng, tranh đoạt, hãm hại, cuồng bạo, dâm loạn, phỉnh gạg, cưỡng hiếp, vu khống, trộm cắp, ỷ thế, cậy quyền, oán thù, gươm đao, súng đạn, tù đày, thuốc độc v.v… ân ái phải xa nhau, thù ghét phải hội ngộ, nhp̃ng tai bay vạ gởi, muốn chết không chết, cầu sống không sống được v.v… Bởi thế, cuộc đời quả thật là nơi tập trung mọi điều khổ não và loài người cũng giống nhp con ốc sên sống trong khổ hải đó! Nhưng một khi được sanh về Tịnh Độ tất cả phiền khổ vĩnh viễn chấm dứt: hóa thân tự do tự tại; hoàn cảnh xứng hợp với ý muốn; hằng ngày chung đụng, tiếp xúc với thiện tri hữu tri thức cùng các vị Thánh Hiền, nên Nội, Ngoại và Cọng cả ba y đều hoàn toàn an lạc không mảy may nhuốm vị thương đau.

 

Hơn thế nữa, trong thế giới Sa-Bà còn có nhiều những thứ như: ác thần, ngạ quỉ và bàng sanh.  Dù được sanh lên tầng trời thứ nhất của Dục giới, tuổi thọ cũng không thể vượt quá 900 vạn năm và không tránh khỏi những khổ nạn về suy hao, đấu tranh.  Giả sử được sanh về cõi trời Phi-Tưởng-Phi-Phi Tưởng (Hữu đảnh thiên, cõi trời cao nhất của Vô Sắc Giới) tuổi thọ cũng chỉ trong khoảng 8 vạn đại kiếp.  Ấy là chưa kể chúng sinh ở cõi ấy vẫn thiếu tự do, vì còn chấp có Tâm có Định * và khi hưởng hết phước báo lại phải theo nghiệp để sa đọa vào tâm đồ lục đạo như xưa.  Bởi vậy, không những không nên mê luyến kiếp người mà làm trời cũng không dám trông mong.  Thế nhưng xưa nay đã có lắm người niệm Phật với mục đích cầu kiếp sau được làm người giàu sang hoặc được sanh lên cõi Trời.  Đó là một hành động hết sức lầm lẫn! Là Phật tử chân chính chúng ta phải kiên trì chánh niệm: chỉ cầu vãng sanh Tịnh Độ.  Vì lẽ, ở đó không bao giờ nghe đến danh từ địa ngục, ngạ quỉ, bàng sanh.  Những ai vãng sanh về cõi ấy, đều thành Thiện nhơn, Hiền nhơn, Chân thánh, Đại thánh, chỉ có hướng thượng không có thối lui, hết sức an ổn, không còn lo sợ, đầy đủ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, 4 đức và cuối cùng sẽ đạt thành quả Phật.

 

Cuối cùng, sỡ dĩ chúng ta nên nhàm chán cõi Sa-bà vì ở đó chịu nhiều mịt mờ, ngăn cách, ngăn cách giữa đồng loại và dị loại, giới này và giới kia không nghe thấy nhau, không qua lại giao tiếp.  Ví như: thiên giới chỉ có thấy nghe lai vãng với trời, tiên và thần, nhân giới chỉ có thể qua lại thấy nghe với người và bàng sanh; quỉ giới chỉ tiếp xúc được với quỉ và địa ngục.  Hơn thế, rất ít biết về đời trước, không rõ tâm ý người khác, loài khác, tối tăm, mê mờ, cho nên nhàm chán và muốn thoát ly.  Trái lại, cảnh Tịnh độ sáng suốt, khai thông, tai mắt của những Thánh nhân có thể nghe thấy lẫn nhau, có đủ tha tâm và túc mạng thông, thân và cảnh không chướng ngại pháp tánh tròn đầy dung nhiếp, trong sáng, suốt thông nên muốn được vãng sanh.

 

4. Chú thích:

* Thái Tử Tất Đạt Đa hỏi A-La-LAM: “Phi-Tưởng-Phi-Phi-Tưởng hữu ngã hay vô ngã? Vô ngã thì không thể bảo là phi-tưởng-phi-phi-tưởng.  Còn hữu ngã thì ngã ấy có tri giác hay không tri giác?  Không tri giác thì khác gì cây cỏ?  Có tri giác thì làm sao hết phan duyên, có phan duyên thì làm sao hết nhiễm trước, mà có nhiễm trước thì làm sao gọi là giải thoát cứu cánh?” (Xin xem thêm Tăng Già Việt Nam, trang 60)

5.  Mong về Tịnh Độ để sớm dứt sách phiền não, chứng Vô Thượng Giác

 

Ở thế giới Sa-Bà, tuy phát tâm muốn cầu thành Phật, nhưng vì ác duyên đầy dẫy, thiện duyên hiếm hoi, nên vấn đề tu hành rất khó, do đó, rất ít rất ít người thành tựu.  

 

Ở cõi Cực Lạc, hoàn toàn trái ngược: thiện duyên đầy đủ, ác duyên tuyệt đối không có nên rất dễ tu tiến, không bao giờ bị thối thất.

 

Bởi thế, vì muốn thành Phật để độ khắp quần sanh nên cầu về Tịnh Độ đó là tâm hạnh của Bồ Tát.

 

6. Cầu về Tịnh Độ để học vô lượng pháp môn, độ vô biên chúng sinh

 

Sống trong Sa-Bà này, nếu chúng ta muốn, trong một đời, thành tựu đại hạnh độ sanh, đầy đủ công đức trí huệ, thông suốt vô lượng pháp môn phương tiện của chư Phật, Bồ Tát để có thể tuỳ thuận muôn vàn căn cơ, ý muốn tất cả chúng sanh hầu hóa độ họ là điều vô cùng khó khăn! Nhưng một khi đã được vãng sanh Tịnh Độ, hoa nở thấy Phật, chứng vô sanh pháp nhẫn, liền thấy rõ thật tướng, thông đạt được thật tánh các pháp, có thể phân thân ra khắp 10 phương để giáo hóa vô biên chúng sinh.  Vì muốn độ khắp chúng sunh, nên cầu sanh về Tịnh Độ, ấy là đại nguyện của các vị Bồ Tát.  Nếu không có đại nguyện đó, dù được vãng sanh Tịnh Độ cũng chưa thể lập tức vào hàng Thượng Thượng phẩm.

 

C- Hạnh

 

Hạnh là gì?

 

Tức là tu hành, thực hành pháp môn niệm Phật. Tuy đã có lòng tin chân chính và tha thiết mong bắt tay tu tập thì chẳng khác gì một bệnh nhân tuy tin rằng đây quả thật là linh đơn diệu dược, trong lòng cũng muốn uống thuốc ấy lắm, song chưa chịu cầm thuốc bỏ vào miệng …thì vẫn chưa trực tiếp hưởng được diệu dụng của thuốc.  Vì thế, đã có TÍN, NGUYỆN cần phải có HẠNH nữa mới hoàn toàn đầy đủ.

 

Hạnh cũng chia ra 3 phần: Thông hạnh, Chánh hạnh, và Trợ hạnh

 

1 – Thông hạnh

 

Thông hạnh là những hạnh chúng, là những điều kiện cơ bản mà một Phật tử cần phải có, như: hiếu thuận, nuôi nấng cha mẹ, kính thờ sư trưởng, cứu giúp sinh linh, quy y Tam Bảo, giữ giới đã thọ, bỏ ác làm lành, tin nhân quả, luôn luôn ôm ấp lý tưởng Tự Giác, Giác Tha và Giác Hạnh viên mãn.  Đó không những là các điều kiện cần và đủ của một Phật giáo đồ chân chính mà kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật cũng lấy các yếu hạnh đó làm điều kiện vãng sanh Tịnh Độ nữa.

 

2 – Chánh hạnh

 

Chánh hạnh là hạnh chính tức là niệm A Di đà Phật.

 

Thông thường nói niệm Phật có nghĩa là niệm bất cứ đức Phật nào; riêng với những người chuyên tu tịnh nghiệp nói niệm Phật tức chỉ chuyên niệm đức Phật A Di Đà.

 

Niệm Phật có nhiều cách, nhưng TRÌ DANH NIỆM PHẬT là cách giản dị, mhiệm mầu nhất mà những bậc Hiền triết xưa nay đều thực hành.  Trì Danh Niệm Phật lại có ba lối:

 

1- Mỗi nhật định khóa niệm

2- Hằng thời tuỳ duyên niệm

3- Khắc kỳ thủ chứng niệm

 

a.  Mỗi nhật định khóa niệm

 

Sao gọi là mỗi nhật định khóa niệm? Nghĩa là mỗi ngày chúng ta có một thời khóa niệm Phật nhất định, có hai cách:

 

* Mỗi sáng thức dậy, rửa mặt, súc miệng xong, đến trước tượng Phật hoặc kinh Phật, chấp tay đứng thẳng rồi xướng: Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng, Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô Di Lặc Bồ Tát, Nam Mô Phổ Hiền Bồ Tát, Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, cứ mỗi lần xướng lạy 1 lạy.  Tất cả có 7 lạy.  Sau đó, quỳ, ngồi hoặc đứng, niệm lớn tiếng hay niệm thầm 4 chữ A Di Đà Phật khoảng 50 tiếng (câu).  Niệm xong, lại xướng: Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát, mỗi xướng 1 lạy, tất cả có 3 lạy.  Cuối cùng tụng kệ phát nguyện:

 

“Nguyện sanh Tịnh Độ cảnh Tây Phương,

Chín phẩm hoa sen làm cha mẹ,

Hoa nở thấy Phật ngộ vô sanh

Bất thoái Bồ Tát là bè bạn.”

 

Nếu ngày nào cũng bỏ ra chừng 10 tới 15 phút tu tập như vậy, khi mệnh chung (chết) nhất định sẽ được vãng sanh về cõi AN DƯỠNG.

 

Trường hợp ở nơi không có kinh Phật, tượng Phật, thì chỉ cần đứng, ngồi, hoặc quỳ và chắp tay niệm A DI ĐÀ PHẬT rồi tụng bài kệ phát nguyện như trên cũng được.

 

* Tùy hoàn cảnh, tự ý định ra mỗi ngày mấy lần, mỗi lần dài ngắn bao nhiêu, dùng tràng hạt ghi số niệm Phật.  Mỗi ngày niệm mấy trăm, mấy ngàn, mấy vạn tùy ý, càng nhiều càng tốt, nhưng nên nhớ là dần dần thêm lên chứ đừng thụt lùi.  Hiệu quả cũng như trên.

 

b. Hằng Thời Tùy Duyên Niệm

 

Hằng-Thời-Tùy-Duyên-Niệm là bất cứ lúc nào, ở đâu, dưới hình thức nào, rảnh rổi hay công tác, trong tư thế: đi, đứng, nằm, ngồi đều nhiếp tâm niệm Nam Mô A Di Đà Phật.  Như khi thấy một chúng sinh bị giết mà không cứu được, chúng ta nên niệm Nam Mô A Di Đà Phật để cầu Ngài độ cho thần thức chúng sinh ấy được vãng sanh; nếu gặp người đau nặng, xem chừng không qua khỏi, chúng ta nên niệm Phật cho họ bớt lo buồn đau khổ và được sanh về cõi AN LẠC.  Và, nếu có thể thì nên vì người bệnh giới thiệu cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà cùng đại nguyện cứu độ chúng sinh của Ngài, rôi khuyên người bệnh chuyên tâm niệm Phật, cầu sanh về Tịnh Độ v.v… Tóm lại, trong bất cứ thời gian, hoàn cảnh nào cũng rán giữ cho câu Nam Mô A Di Đà Phật được kế tiếp mãi trong tâm.  Thế là tịnh nghiệp đã thành tựu.  Nhưng, hạnh này (Hằng Thời Tùy Duyên Niệm) không phải dễ thực hành, do đó, cách hay nhất và trước hết nên tu theo lối Mỗi-Nhật-Định-Khóa-Niệm, sau đó tu thêm hạnh này (Hằng Thời Tùy Duyên Niệm) mới ổn đáng.

 

c. Khắc Kỳ Thủ Chứng Niệm

 

Khắc-Kỳ-Thủ-Chứng-Niệm là bỏ hết mọi thế duyên, cắt đứt hết thế sự, một mình cùng thiện hữu, ở trong Chùa hay Tịnh Thất, hạn định từ 1 ngày, 7 ngày, 21 ngày, 49 ngày, vài tháng, một năm, vài ba năm cho đến suốt đời lễ kính Phật Pháp, sám trừ nghiệp chướng, tụng các kinh điển liên quan đến vấn đề cầu sanh Tịnh Độ và những kinh luật Đại Thừa, tâm tâm niệm niệm phát nguyện cầu về Cực Lạc.

 

Ngày đêm sáu lần (luc̣ thời *) hoặc ngồi kinh hành (vừa đi vừa niệm Phật) chuyên niệm A Di Đà Phật, tự đặt ra một kỳ hạn nhất định và quyết đạt thành Nhất-tâm-bất-loạn, thân chứng được Niệm-Phật-Tam-Muội*, bấy giờ sẽ thườngt thấy rõ cảnh Tây Phương Tịnh Độ, đức Phật A Di đà và các vị đại Bồ Tát hiện ngay trước mắt và chính hành giả cũng được tụ hội trong đó, nghĩa là tuy còn ở Sa-Bà, song đã có thể chứng được kết quả của cõi Cực Lạc.  Vì thế, ai đã tu hai hạnh trước, nếu mỗi năm lại Kết Thất niệm Phật nữa thì thật quá hay!

Chú thích:

* Trú dạ lục thời tức ngày đêm 6 lần, ngày 3 lần: sáng, trưa và chiều; đêm 3 lần: đầu hôm, nửa đêm và cuối đêm chuyên cần trì niệm…

* Niệm Phật Tam Muội có ba loại:

1. Nhất tâm quán tướng hảo của Phật hoặc nhất tâm quán thật tướng của Pháp thân (Cả hai thữ này thuộc Quán Tưởng Niệm Phật) hoặc nhất tâm xưng danh (xưng danh niệm Phật).  Cả ba phương pháp vừa kể gọi là Nhân Hạnh Niệm Phật tam muội.

2. Niệm Phật đến khi tâm không còn tán loạn (tâm nhập thiền định) thấy Phật hoặc thấy thật tướng của Pháp thân, đó gọi là Thành-Quả-Niệm-Phật-Tam-Muội.  Nhân Hạnh gọi là TU, THÀNH QUẢ gọi là PHÁT ĐẮC.  Kinh Quán Vô Lượng Thọ: “Ở trong hiện thân này được niệm Phật tam muội.”  Được niệm Phật tam muội tức thấy tức cả chư Phật trong mười phương, vì thấy chư Phật nên gọi là Niệm-Phật-Tam-Muội.  Kinh Niệm Phật tam muội cuốn 7 nói: “Niệm Phật tam muội bao gồm tất cả các Pháp, nên không phải là cảnh giới của Thanh Văn và Duyên Giác,:v.v…

3 – Trợ Hạnh

 

Trợ hạnh là những hạnh phụ giúp cho chính hánh mau thành tựu, gồm có hai: Tài thí và Pháp thí.

 

Tài thí bao gồm các việc như: IN kinh sách, xây tháp, đúc tượng, lập chùa, trai tăng, phóng sanh, làm cầu, đắp đường, giúp đỡ người nghèo khổ, nuôi người già, trẻ mồ côi, cứu giúp người bị tai nạn, ốm đau v.v…

 

Pháp thí gồm có các việc: hiếu thuận cha mẹ, quy y Tam Bảo, giữ 5 giới cấm, niệm A dei Đà Phật, tụng kinh Đại Thừa, tập chúng để diễn giảng Chánh Pháp v.v…, Tự mình làm và khuyến hóa người khác làm các việc vừa kể trên gọi là Pháp thí.

 

Điều quan trọng là phải biết đem công đức của những việc làm ấy phát nguyện hồi hướng cầu vãng sanh Cực Lạc, chứ đừng cầu phước báo ở cõi trời người, như vậy mới gọi là đi đúng cách.

 

Ngài Thái Hư từng nói: “Người tu pháp môn niệm Phật cũng như tới địa phương nào đó lấy một vật gì.  Trong trường hợp này, TÍN như con mắt, cần phải thấy rõ và xác thực có cái mà mình muốn lấy và có thể lấy được.  HẠNH ví như hai chân, hai tay, tuy mắt thấy nhưng nếu không có chân để tới đó và không có tay để lấy thì kết quả vẫn không thành.  Muốn thành phải vận dụng cả ba: mắt, chân và tay.  Tuy đã có mắt, chân và tay, song không có ý lấy vật ấy thì cuối cùng chả đi đến đâu.”  Do đó, TÍN, NGUYỆN, và HẠNH sẽ rõ.

 

Trong bài “ Luận Về Yếu Nghĩa Tịnh Độ”, khi định nghĩa về chữ TÍN, Ngài nói: 

 

“Tín có CĂN BẢN TÍN và THÁNH GIÁO TÍN.  Căn bản Tín tức là xác tín có Đạo Bồ Đề, có Trí Giác Vô Thượng.  Vì có lòng tin như vậy nên mới khởi tâm mong cầu, tiến thủ và đi trên đường hướng về Bồ Đề.  Cho nên hễ lòng tin càng khẩn thiết thì mục đích càng mau đạt tới.  Đã tin có Đạo Bồ Đề, lại cần tin rằng đã có người tu chứng được Đạo ấy.  Nhờ tin như thế mới tin có Phật và giáo pháp do Phật nói ra, vì Phật là người đã chứng Vô Thượng Bồ Đề.

 

THÁNH GIÁO TÍN là tin vào THÁNH GIÁO tức Chánh Pháp do đức Phật thuyết minh, sau khi đã giác ngộ.  Ngoài ra, cần phải tin rằng trong 84.000 phương pháp tu hành của Phật giáo chỉ có pháp môn Tịnh Độ là con đường ngắn nhất để đạt đến Vô Thượng Bồ Đề.  Tịnh Độ là danh từ dùng để phân biệt với Sa-Bà uế độ.  Bước đầu của lòng tin là tin chắc rằng trong hư không vô tận thế giới vô biên thật có cảnh Tịnh Độ.  Và một khi đã được vãng sanh Tịnh Độ tức người ấy đã thẳng tiến trên đường giác ngộ Đạo Bồ Đề, không bao giờ bị thối chuyển.  Vì lẽ đó, muốn chứng Vô Thượng Bồ Đề, trước phải cầu về Tịnh Độ.”

 

Về được Tịnh Độ tức CHỨNG.  CHỨNG là kết quả của TÍN, NGUYỆN và HẠNH – Tông chỉ của Pháp Môn Tịnh Độ.

 

Chứng có HIỆN CHỨNG TAM MUỘI và LÂM CHUNG VÃNG SANH.

 

Hiện-Chứng-Tam-Muội là niệm Phật đến trình độ NHẤT TÂM BẤT LOẠN tức là tâm vào Chánh định và khi tâm đã liền có thể hiện chứng cảnh Tây Phương Cực Lạc ngay trước mắt, trong đời này.

 

Sơ Tổ Huệ Viễn là người đã đạt tới Hiện-Chứng-T̉am-Muội, Ngài đã từng ở trong Chánh Định ba lần thấy cảnh Tịnh Độ của đức Phật A-Di-Đà.  Nhưngt, Hiện-Chứng-Tam-Muội chưa phải là cứu cánh, vì chưa lìa sắc tướng.  Do đó, cần phải thành tựu LÂM CHUNG VÃNG SANH.

 

Lâm-Chung-Vãng-Sanh tức là khi kết thúc đời người, thần thức người ấy được về Tịnh Độ… Bởi lẽ, Hiện-Chứng-T̉am-Muội chỉ có nghĩa Hiện-Sanh-Pháp-Lạc – niềm vui giải thoát có từ sự tu hành, nhưng mục đích của Pháp môn Tịnh Độ là cầu được vãng sanh Cực Lạc, khi đã chết.

 

Tóm lại, tuy rằng LÂM CHUNG VÃNG SANH quan trọng hơn HIỆN CHỨNG TAM MUỘI, nhưng chúng ta nên biết hiện chứng là một triệu chứng bất khả tư nghị báo trước thành quả của sự tu hành, đồng thời xác quyết rằng hành giả ấy nhất định sẽ được vãng sanh khi lâm chung.

 

Vì tính chất giản dị, chắc chắn, nhanh chóng … của pháp môn Tịnh Độ, nên giới Phật giáo ở Trung Quốc từ đời Tống (thế kỷ 10) về sau, nói đến tu hành hầu như chỉ nghe tới Thiền và Tịnh Độ.  Nhưng từ đời Minh và Thanh cho tới nay, do sự nỗ lực tuyên dương của các Đại Sư Liên Trì, Tử Bá, Hàm Sơn, Ngẫu Ích… Tịnh Độ tông đã chiếm địa vị độc tôn trong thiên hạ.  Không riêng gì Trung Hoa, ở Nhật Bản Tịnh Độ cũng đứng vào hành đầu, trên tất cả các tông phái khác.  Vì số lượng tín chúng quá đông, nên Tịnh Độ tôngở Nhật chia ra nhiều hệ phái, đại ước có 4 tông lớn:

 

– Tịnh Độ tông

– Thời tông*

– Dung thông Niệm Phật Tông*

– Chơn tông

 

Thời tông, Dung thông Niệm Phật tông và Chơn tông tuy khác tên, nhưng đều thoát thai từ Tịnh Độ tông, chỉ khác chút ít về giáo nghĩa.

 

Trong 4 tông vừa kể, chơn tông thạnh hành nhất: có trên 20.000 ngôi chùa, thầy truyền giáo hơn 20.000 tín đồ trên 20 triệu.

 

Chơn tông do Ngài Thân Loan sáng lập.  Tông này không giữ các giới cấm, chỉ lấy niệm Phật làm phương pháp tu hành; khác với Tịnh Độ tông ở Trung Hoa, Chơn tông chỉ trọng tại TÍN mà thôi.

Chú thích:

* Thời tông, tông này chủ trương khi sống niệm Phật cũng phải khẩn thiết như lúc sắp chết…

* Dung thông niệm Phật tông, tông này chủ trương một người tức nhiều người, và ngược lại…

 

NGUYÊN LÝ CỦA VẤN ĐỀ NIỆM PHẬT VÃNG SANH

Trong Phật Pháp khi thuyết minh về các pháp (sắc pháp và tâm pháp) do nhân duyên sanh có đề cập tới hai loại lực:

 

a- Khả tư nghị lực (có thể hiểu biết nổi)

b- Bất khả tư nghị lực (ngoài sức tưởng tượng của trí óc con người)

 

KHẢ TƯ NGHỊ LỰC

Khả tư nghị lực, loại lực có thể dùng tâm thức để phân tích, suy lường, đươc, như: y vào nguyên nhân gì sẽ được kết quả gì, tạo loại nghiệp gì sẽ chiêu cảm quả báo gì, có cảnh gì sẽ làm phát khởi tâm gì và ngược lại, do loại hiện hành (tức chỉ sắc pháp và tâm pháp sinh ra từ chủng tử trong A-lại-gia) nào huân tập thành chủng tử nào và ngược lại do chủng tử nào sinh khởi ra hiện hành nào v.v… Ấy là những pháp tắc, nhân quả thông thường mà chúng ta có thể đo lường, phân biệt được.

 

Từ ađ̣o lý nhân quả phổ biến và thông thường đó chúng ta thấy rằng những ai tạo tội thượng phẩm (rất nặng) ngũ nghịch và thập ác sẽ đọa vào địa ngục; tạo trung phẩm (vừa vừa) ngũ nghịch và thập ác sẽ đọa vào loài ngạ quỉ; tạo hạ phẩm (nhẹ) ngũ nghịch và thập ác sẽ đọa vào loài bàng sanh.

 

Thực hành hạ phẩm ngũ giới và thập thiện sẽ được làm A Tu La; trung phẩm ngũ giới và thập thiện sẽ được sinh làm người; thượng phẩm ngũ giới và thập thiện sẽ được sanh về một trong sáu cõi trời Dục giới; tu hành thượng phẩm ngũ giới, thập thiện và kiêm tu tứ thiền, bát định (tức 4 thiền định của Sắc giới cọng với 4 Không định của Vô Sắc giới) thì sẽ sanh về cõi trời Sắc và Vô Sắc.

 

Quán Lý tứ Đế (Khổ, Tập, Diệt và Đạo Đế), tu Tứ Niệm xứ (quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, và quán pháp vô ngã), tứ chánh cần (ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh, dứt trừ những điều ác đã sinh ra, làm nẩy nở những điều lành đã nẩy nở), tứ như ý túc (Dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, nhất tâm như ý túc, và Quán như ý túc), Ngũ căn (Tín căn, Tấn, Niệm, Định và Huệ Căn), Ngũ Lực (Tín lực, Tấn, Niệm, Định và Huệ Lực), Thất giác chi (Trạch pháp giác chi, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Niệm, Định và Xã Giác Chi), và Bát Chánh Đạo (Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tin tấn, Chánh Niệm và Chánh định) sẽ chứng A La Hán.

 

Quán 12 duyên khởi từ chiều mê mờ (lưu chuyển) đến chiều giác ngộ (hoàn diệt) tức do Vô minh diệt thì Hành diệt… cho đến sanh diệt thì Lão, Tử diệt sẽ chứng quả Duyên Giác.

 

Tu Lục Độ hoặc Thập Độ (6 độ cộng thêm: phương tiện, Nguyện, Lực và Trí Ba La Mật) sẽ chứng Vô Thượng Giác.

 

Trên đây đã trình bày về vấn đề gây nghiệp nhân thập ác sẽ bị quả báo đọa vào ba ác thú (Địa ngục, Ngạ Quỷ và Bàng Sanh), tạo nhân giữ ngũ giới, tu thập thiện sẽ sanh vào ba thiện thú (A Tu La , người và Trời), tu các pháp xuất thết của Tam Thừa sẽ chứng Tam Thừa Thánh quả.  Tất cả những điều vừa kể đều y cứ vào KHẢ TƯ NGHỊ LỰC để thuyết minh.

 

Nhưng, hết thảy những kết quả do Khả tư nghị nhân duyên lực sanh ra tuy rất thật tại, rõ ràng song không thể bao gồm tất cả các pháp do Nhân duyên sanh.  Vì vậy, tiến thêm bước nữa, chúng ta cần phải thuyết minh nguyên lý của những kết quả do BẤT KHẢ TƯ NGHỊ LỰC DUYÊN sanh.

 

Căn cứ vào pháp tướng trong Phật giáo, Bất khả tư nghị lực có 5 loại:

 

1 – ĐỊNH LỰC BẤT KHẢ TU NGHỊ

 

Nếu y vào KHẢ TƯ NGHỊ LỰC, người nào tạo ác nhân nhất định sẽ chịu ác báo, nhưng nhờ vào định lực lại có thể hoán chuyển.  Song định lực có sâu cạn, cao thấp khác nhau, như định lực của Người, Trời, Thanh Văn, Duyên Giác, và các vị Bồ Tát từ đệ nhất địa (Viễn Hạnh Địa) về trước đều rất hữu hạn.  Do đó, dù đã có Bất khả tư nghị định lực, nhưng chưa chắc hoàn toàn có thực dụng.  Từ hàng Bồ Tát đệ bát địa trở lên (Bất động địa) chứng được ̣ịnh Tự Tại Lực mới có thể chuyển biến tất cả được: như biến nước thành lửa, đất thành hư không, tất cả những công cụ hại người trở thành vật hữu ích, biến cảnh khổ địa ngục thành cõi an vui v.v… và tất cả các cảnh được biến hóa ấy không phải chỉ có tướng trạng mà còn đủ cả thực dụng nữa.

 

2 – THÔNG LỰC BẤT KHẢ TƯ NGHỊ

 

Thông tức là tác dụng của Định và Huệ.  Từ đệ bát địa về trước Định lực và Thông lực ở tình trạng tách rời, khu biệt, cho nên những cảnh tướng do định lực biến hiện thiếu thực dụng, còn thông lực thì trái lại.  Từ đệ bát địa trở lên Định và Thông lực đã kết hợp, nhất trí, nên đều có thể phát sinh hiệu dụng như nhau.

 

Về tính chất (tác dụng) bất khả tư nghị của Thông Lực cũng có thể tạm ví như phương pháp trị liệu bịnh tinh thần bằng thuật thôi miên của thế gian, nhà thôi miên không dùng thuốc mà chỉ vận dụng sự giao cảm, trong trạng thái tỉnh, giữa hai tâm hồn (bệnh nhân và nhà thôi miên) rồi từ đó phát sinh ra một điểm linh-thông-lực, chi phốí thân tâm của bệnh nhân, khiến người bệnh được khỏi.  Thuật trị bệnh không dùng thuốc ấy là bước đầu về tính chất bất khả tư nghị của Thông lực trong Phật giáo.

 

3 – TÁ THỨC LỰC BẤT KHẢ TƯ NGHỊ

 

Ở trong thức A Lại Gia vốn hàm tàng cả chủng tử vô lậu và hữu lậu – hữu lậu chủng tử sinh ra (hiện hành) tất cả các pháp trong tam giới – nếu chủng tử hữu lậu của Dục giới gặp và đủ nhân duyên sẽ sanh khởi hiện hành mà có A Lại Gia trong Dục giới.  Do đó, chánh báo (căn thân) và y báo (hoàn cảnh) đều thuộc về Dục giới và đều do thức A Lại Gia trong Dục giới biến hiện ra.  Nhưng, nếu do Tăng thượng duyên thù thắng của Định Lực hoặc Thông Lực bất khả tư nghị thì lại có thể mượn chủng tử vô lậu hay chủng tử của Sắc và Vô Sắc giới trong A Lại Gia Thức để làm sanh khởi hiện hành.  Trong trường hợp này, thân tuy ở Dục giới song có thể mượn thức (Tá thức lực) của Sắc và Vô Sắc giới để biến hiện ra cảnh tượng của Sắc và VôVsắc giới; hoặc cũng có thể mượn cái thức vượt ngoài Sắc và Vô Sắc giới để biến hiện cảnh tượng xuất thế gian.  Hơn thế nữa, chúng sanh trên thượng giới cũng có thể mượn thức của hạ giới để hiểu biết các pháp của hạ giới, như chúng sanh ở Sắc giới từ cõi Nhị thiền trở lên, vì thường sống trong cảnh định, nên 5 thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, và thân thức) không khởi tác dụng, song khi nào muốn biết việc ở Dục giới, mặc dù thân ở cõi Nhị thiền vẫn có thể mượn thức của Dục giới để biết cõi ấy.

 

Cái nguyên lý TÁ THỨC đó thông dụng tới các chư Phật; Phật có thể tá thức của chúng sanh để khiến họ biết được việc trong tâm Ngài.  Như đã có lần, khi đức Phật ở trong núi, Ngài đã dùng phương pháp ấy khiến cho loài khỉ biết được tâm mình…

 

4 – THIỆN PHÁP LỰC BẤT KHẢ TƯ NGHỊ

 

Chư Phật, Bồ Tát, Duyên giác, Thanh vân đã thành tựu công đức vô lậu, từ đó ĐẲNG LƯU (sản sinh, có ra một cách bình đẳng, trung thực y như sự giác ngộ của các Ngài) ra kinh, luật, cà sa, xá lợi v.v… tất cả các thứ ấy gọi là thiện pháp.  Những thiện pháp ấy có ra từ công đức vô lậu của Pháp thân tức cũng như ĐẲNG LƯU THÂN của chư Phật; vì vậy, dù chỉ mang theo một vài sợi chỉ của chiếc Cà Sa cũng được tiêu tai thêm phước, hoặc tụng trì, cúng dường, hoặc mang kinh điển trên thân đều có thể tránh thoát tai ương, thành tựu công đức.  Cho đến như trong kinh Pháp Hoa nói: “Nếu ai đọc tụng kinh Pháp Hoa đến một mức độ nào đó sẽ được 6 căn thanh tịnh: “con mắt có thể thấy sắc, tai có thể nghe được âm thanh trong ba ngàn thế giới và ba ngàn thế giới đều ở trên thân người ấy.”  Do sức gia trì bất khả tư nghị của Thiện Pháp tức có thể phát sinh ra cái công dụng bất khả tư nghị ấy.  Sở dĩ Thiện pháp lực có một sự thù thắng như thế là do chúng ta có một lòng tin chân thành, khẩn thiết hoàn toàn đặt trọn niềm tin vào sức mạnh siêu linh.  Ví như khi chúng ta ném một hạt cát xuống nước, nó liền bị chìm.  Ngược lại một tảng đá nặng 1000 cân, nếu được dùng thuyền chở thì có thể mang qua sông một cách dễ dàng.

 

5 – NGUYỆN LỰC BẤT KHẢ TƯ NGHỊ

 

Nguyện lực tức thệ nguyện lực là sự chí thành thiết tập trung tâm lực làm phát sinh ra sức mạnh phi thường của ý chí.  Như sự phát nguyện vãng sanh Cực Lạc của người tu hạnh NIỆM PHẬT, trong khi phát nguyện, tinh thần người ấy tập trung trọn vẹn vào lời thệ nguyện cầu vãng sanh, lâu ngày thuần thục và trở nên một thệ nguyện lực do tập quán tạo thành.  Và, y vào diệu dụng của thệ nguyện lực ấy, hành giả có thể phát hiện ra những điều khác lạ với những kết quả do nhân duyên phổ biến, tầm thường tạo nên.

 

Câu chuyện sau đây sẽ cho chúng ta thấy sự kỳ diệu của thệ nguyện lực:

 

“Ngày xưa có hai ông vua đánh nhau, một ông bị thua, ̣để trả thù, ông vua bại trận lập thệ nguyện sẽ làm Diêm Vương (vua ở cõi âm) để có cơ hội trừng phạt đối phương.  Và quả nhiên ông vua thất trận được toại nguyện…”

 

Tóm lại, 5 Bất khả tư nghị lực vừa trình bày trên đây, 3 thứ trước chỉ hàng Tam thừa (Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát) và những người tu thiền định đã thành mới có; nếu muốn thành tựu 3 thứ lực ấy, chúng ta phải tu hành tới một trình độ nào đó mới sanh khởi tác dụng, chứ không phải ai cũng có thể làm được.  Nhưng với THIỆN PHÁP LỰC và NGUYỆN LỰC thì trái lại, nghĩa là bất cứ ai cũng có thể có được, không cần đòi hỏi đến vấn đề dụng công như thế nào.  Như hiện nay chúng ta nghe trong các kinh điển do đức Thích Ca Mâu Ni để lại nói rằng: Có Tây Phương Cực Lạct Thế Giới, thế giới ấy do Nguyện Lực của đức Phật A Di Đà tạo nên, dùng để nhiếp thọ chúng sanh trong mười phương phát nguyện vãng sanh về đó.  Nếu chúng ta tin theo lời đức Bổn Sư, tin có Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, đó tức là THIỆN PHÁP LỰC vậy.

 

Đã biết thế giới Cực Lạc là để nhiếp thọ chúng sinh trong khắp mười phương phát nguyện vãng sanh mà thiết lập nên chỉ cần tin vào Thiện Pháp của Phật, thệ nguyện y theo nguyện lực của đức A Di Đà, chắc chắn sẽ được vãng sanh.

 

Có người hỏi rằng: vấn đề vãng sanh dễ dàng như thế, tại sao trong số kinh điển lại bảo cần phải tu đến cấp TỨ GIA HẠNH (cũng gọi là Tứ Thiện Căn) gồm có: Noãn, Đảnh, Nhẫn và Thế Đệ Nhất, về tầng thứ, theo Đại Thừa Pháp Tướng Tông, Tứ Gia Hạnh ở trên Thập Hồi Hướng, nhưng dưới Thập Địa Bồ Tát, nghĩa là trải qua Tứ Gia Hạnh xong mới bước vào Sơ Địa Bồ Tát…), thành tựu định huệ, vào Sơ địa mới có thể vãng sanh Tịnh Độ?

 

Đó là y vào kết quả do KHẢ TƯ NGHỊ NHÂN DUYÊN LỰC mà nói, nếu y cứ vào BẤT KHẢ TƯ NGHỊ LỰC thì không thế, tuy chưa thành tựu thiện căn, song chỉ cần tin vào Thiện Pháp Lực, kết hợp với nguyện lực khẩn thiết của tâm mình, tức thành được thiện căn và có thể cùng với nguyện lực của đức A Di đà cảm thông.  Bấy giờ, nguyện lực của ngài là của mình và dĩ nhiên mình đã được sống trong thế giới Cực Lạc.  Cũng giống như một nhà đại phú có lập di chúc rằng: “Sau khi tôi chết, tất cả của cải thuộc về tôi sẽ đem giúp đỡ cho hết thảy những người 6 quan năng tàn khuyết trên thế giới.’  Do đó, nếu ai là người như thế, tất nhiên họ sẽ hưởng được một phần tài sản của phú ông.  Người tu pháp môn Niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc chắc chắn sẽ có phần trong thế giới ấy, đó là lẽ đương nhiên, chẳng có gì khó hiểu cả.

 

Trên đây, chúng ta nói về Thiện Pháp Lực và Nguyện Lực, nếu đem so sánh với tông chỉ của Tịnh Độ cũng hoàn toàn phù hợp: Y vào Thiện Pháp Lực tức là Tín Tâm (TÍN), phát nguyện cầu vãng sanh là Nguyện Lực (Nguyện).  Khi Tín và Nguyện đã chính xác, kiên cố rồi, lúc bấy giờ không luận Niệm Phật (Hạnh) nhiều hay ít đều được vãng sanh, chỉ có khác là nếu tu hành nhiều thì khi về Tịnh Độ sẽ ở phẩm vị cao và ngược lại…

 

Bởi vậy, Niệm Phật vãng sanh là một pháp môn đặc thù được kiến lập trên nguyên lý BẤT KHẢ TƯ NGHỊ NHÂN DUYÊN LỰC mà có ra kết quả.

 

Người tu hạnh Niệm Phật trước hết cần phải rõ ràng cái đạo lý căn bản ấy, sau đó mới phát tâm tu trì.  Có như thế, sẽ không bị những dị thuyết, tà thuyết, cám dỗ lung lạc.

 

Yếu Nghĩa của Kinh VÔ LƯỢNG THỌ

 

Lời người dịch:

 

“Kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ và Kinh A Di Đà là ba bộ Kinh trọng yếu của Tịnh Độ Tông.  Vì lẽ đó, sau 2 bài: Lược thuyết về pháp môn vãng sanh AN LẠC ĐỘ và Nguyên lý của vấn đề niệm Phật vãng sanh, chúng tôi xin cống hiến những ai thích tìm hiểu Phật giáo, nhất là những vị chuyên tu TỊNH NGHIỆP một tài liệu quý báu YẾU NGHĨA CỦA KINH VÔ LƯỢNG THỌ để giúp các bạn tiến nhanh hơn trên con đường hướng về miền LẠC ĐỘ.  Và dưới ̣ây là nội dung của Kinh ấy.”

 

Một cách khái quát, kinh này được chia ra làm 2 phần để thuyết minh:

 

  1. Vị trí của Pháp môn Tịnh Độ trong Phật Pháp
  2. Nghĩa lý thù thắng của Kinh Vô Lượng Thọ đối với các Kinh Luận khác.

 

Trước hết, xin trình bày phần I: Vị trí của Pháp môn Tịnh Độ trong Phật Pháp

 

Trong phần này lạ̣i chia ra 2 phần:

– Nói về nghĩa thông thường của tất cả những cõi Tịnh Độ

– Nghĩa đặc biệt về cõi Tịnh Độ của đức A Di Đà

 

NÓI VỀ NGHĨA THÔNG THƯỜNG CỦA TẤT CẢ NHỮNG CÕI TỊNH ĐỘ

 

Độ tức quốc độ, là thế giới, nơi chốn để y trú.  Tịnh là thanh tịnh không mảy may cấu uế – Nghĩa là quốc độ ấy về phương diện hưởng thụ chỉ có vui không khổ, về hành động chỉ có thiện không nhiễm ô, đó là nơi y trú vô cùng trang nghiêm, thanh tịnh và vi diệu.

 

Trên đây là định nghĩa danh từ Tịnh Độ, nhưng “tịnh” cũng là một động từ, trong trường hợp này nó có nghĩa là rửa sạch ô uế… Ở đây nói Tịnh Độ hàm nghĩa rằng Bồ Tát trong khi tu nhân đã y vào tâm chúng sinh thực hành vô số hạnh thanh tịnh, nên kết quả là chuyển đổi chúng sinh và thế giới vốn không thanh tịnh thành thanh tịnh.  Gồm đủ cả hai nghĩa trên nên gọi là Tịnh Độ.

 

Trong nghĩa thông thường của Tịnh Độ cũng có hai phần:

 

1. Nghiêm Tịnh Phật Độ

 

Tất cả Đại Thừa Phật Pháp đều là những phương pháp tu hành để đi đến kết quả là Nghiêm Tịnh Phật Độ (làm trang nghiêm và thanh tịnh cõi Phật).  Tại sao thế?  Vì, khác với hàng Tiểu Thừa chuyên vì mình (tự lới, tự độ) các vị Bồ Tát tối sơ đều phát tâm Đại Thừa, Nguyện Đại Bi muốn cứu độ khắp tất cả chúng sinh.  Phát tâm rộng lớn như thế rồi, nên trên đường tu hành các ngài hoàn toàn lấy tâm chúng sinh làm thân tâm mình; nhất cử nhất động đều vì chúng sinh, cho chúng sinh, chứ không còn thấy có một tự ngã riêng rẽ đứng ngoài bản thể Đại Đồng.

 

Kinh Duy Ma nói:

 

“Nếu Bồ Tát muốn tu hạnh làm thanh tịnh cõi Phật thì nên y cứ vào đâu? – y vào tâm chúng sinh, vì tâm chúng sinh tịnh quốc độ mới tịnh”.  Như hiện naychúng ta, nói riêng và chúng sinh, nói chung, đang sống trong một quốc độ nhiều tai nhiều nạn, tất cả những thảm trạng đó đều do phiền não, ác nghiệp của chúng sinh tạo ra.  Các vị Bồ Tát vì muốn chuyển ác nghiệp thành tịnh nghiệp.  Một nước biết tu, một nước yên vui, cả thế giới biết tu hết thảy an hòa.  Cho nên mục đích tu hành của Bồ Tát là vì tất cả chúng sinh, vì muốn thanh tịnh cõi Phật chứ không phải vì mình.  Một vị hay vô số vị Bồ Tát tu hành cũng vì thế.  Bởi vậy, tất cả Đại Thừa Phật Pháp đều là TỊNH ĐỘ PHÁP MÔN  và ý nghĩa của bốn chữ NGHIÊM TỊNH PHẬT ĐỘ cũng phát xuất từ đấy.

 

2. Thanh Tịnh Quốc Độ

 

Thanh Tịnh quốc độ, thế giới và thanh tịnh trú xứ đều gọi là Tịnh Độ.  Thế thì nghĩa chữ tịnh độ rất phổ biến và rộng rãi hơn nghĩa thứ nhất; chúng ta có thể chia theo chiều dọc và ngang 2 phần để trình bày cho dễ hiểu.

 

Về chiều dọc có  loại Tịnh Độ: Biến hóa, Thọ dụng và Pháp tánh Tịnh Độ.

 

– Biến Hóa Tịnh Độ tức như Tông Thiên Thai gọi là Phàm Thánh Đồng Cư và Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ vậy.  Đây là Chư Phật, Bồ Tát thích ứng với căn cơ của lục đạo phàm phu cùng hành Nhị Thừa (Thanh Văn và Duyên Giác) và Tam Hiền (Thập Trú, Thập Hạnh và Thập Hồi Hướng), Thập Thánh (từ Sơ Địa tới Thập Địa) mà thị hiện ra cõi Phật thanh tịnh, nên gọi là Biến Hóa Tịnh Độ.

 

Vì lục đạo phàm phu (Trời, Người, A Tu La, Địa Ngục, Ngạ Quỉ và Bàng Sanh) mà hiện, như khi đức Phật ứng hóa ở cõi trời thì cõi trời có Tịnh Độ đạo tràng;  cho đến địa ngục, ngạ quỉ, bàng sanh không nơi nào không có Phật thị hiện hóa độ trong đó, tức là có Phật an trú nơi cõi Phật tại cõi ấy, nghĩa là tùy Biến hóa thân của Phật ở đâu thì có Biến hóa độ ở đó.  Nhưng Biến Hóa Phật không những chỉ ứng hiện vào lục đạo, ở hàng Nhị Thừa, Tam Hiền, Tứ Gia Hạnh và luôn cả đối với Thập địa Bồ Tát cũng thế, chỉ có khác là trở nên thắng diệu hơn, nên gọi là Thắng Ứng Thân Độ*.  Vì thế ở đây nói Biến  hóa Độ tức gồm cả Phàm Thánh Đồng Cư và Phương Tiện Hữu dư hai cõi Tịnh Độ.

 

THỌ DỤNG TỊNH ĐỘ.  Thọ Dụng ở đây có nghĩa là thọ dụng quả báo, tức tạo nhân gì thì thọ quả báo gì.  Quả báo của Phật và Bồ Tát là THẬT BÁO TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ.

 

Thọ Dụng Tịnh Độ có hai: Tự Thọ Dụng và Tha Thọ Dụng.

 

Tha Thọ Dụng tức Bồ Tát Sở duyên (tiếp xúc, thọ dụng) với Báo thân Vô biên tướng hảo và quốc độ đủ vô biên trang nghiêm, như Hoa Tạng Thế Giới trong kinh Hoa Nghiêm vậy.  Đây là Phật tùy thuận chỗ chứng ngộ của Bồ Tát mà thị hiện chứ không phải là cảnh Tự Thọ Dúng của riêng mình.  Nhưng điều này cũng chỉ có hàng Đăng Địa Bồ Tát (từ sơ địa đến Thập địa gọi là Đăng Địa) mới có thể biết nổi.

 

Tự Thọ Dụng là cảnh giới hoàn toàn thanh tịnh riêng của chư Phật.

 

Có người hỏi rằng: “Thể tánh của cảnh giới Tự Thọ Dụng ấy như thế nào?”

 

– Thể tánh của cảnh giới ấy là do AM MA LA THỨC (AMALA, cũng gọi là AMALA thức, A MẠT LA thức, dịch nghĩa là Thanh Tịnh, vô cấu và CHƠN NHƯ thức) và bốn trí (Thành sở tác trí, Diệu quan sát trí, Bình đẳng tánh trí, và Đại viên kinh trí tức Nhất thiết chủng trí, đây là căn cứ vào Đại thừa Pháp tướng tông) tương ưng mà có ra.

 

– Pháp Tánh Tịnh Độ cũng gọi Thường Tịch quan độ.  Đây tức là Chân như Pháp tánh bình đẳng của các Pháp.  Pháp tánh này khi lên hàng Sơ Địa Bồ Tát mới có thể chứng được một phần nhỏ, mãi tới Phật vị mới toàn chứng.  Tự tánh thanh tịnh xưa nay của các pháp, nó vốn như thế, không phải vì Phật thanh tịnh nên tịnh, vì thế nó không tăng, không giảm, không sanh, không diệt, nên gọi là Pháp Tánh Tịnh Độ.  Hơn thế, tự tánh thanh tịnh ấy từ Phàm Ngu, Nhị Thừa, Bồ Tát, Phật cho đến một ngọn cỏ, một hạt bụi cũng đều đầy đủ như nhau, nhưng cần có Phật trí mới có thể viên chứng, nên gọi là Phật Tịnh Độ.

 

Các nghĩa lý vừa trình bày trên đây bao gồm tất cả Phật Pháp, cho nên nếu dùng ba loại Tịnh Độ trên, Biến hóa.  Thọ Dụng và Pháp Tánh để thuyết minh thì các pháp thế và xuất thế gian đều gồm thâu vào pháp môn Tịnh Độ cả.  Như người tu theo pháp môn nhân và Thiên thừa sẽ được vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ; tu pháp Nhị thừa, sẽ được vào cõi Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ; tu hạnh Đại Thừa Bồ Tát, sẽ chứng nhập Thật Báo Trang Nghiêm và Thường Tịch Quang Tịnh Độ; tu Mật Tông sẽ vào Mật Nghiêm Tịnh Độ; tu Thiền Tông sẽ vào Tự Tánh Tịnh Độ…

 

Tóm lại, không luận người, Trời, Tiểu Thừa, Đại Thừa, nếu tu nhân hạnh của loại tịnh Độ nào sẽ được kết quả về loại Tịnh Độ ấy.

 

– Về chiều ngang – có Thập Phương Tịnh Độ, như trong những Kinh Đại Thừa nói đến: Tây Phương Cực Lạc Tịnh Độ, Đông Phương Dược Sư Lưu Ly Tịnh Độ, Thượng Phương Chúng Hương Tịnh Độ, mười phương thế giới đều có nhiều loại Tịnh Độ khác nhau.  Cực Lạc tịnh độ cũng chỉ là một cõi trong đó, nhưng đặc biệt ở chỗ nó tập hợp tất cả những điều thù thắng của các cõi Tịnh Độ trong mười phương vào cõi này.

 

Chú thích:

* Ứng thân, cũnng gọi Ứng Hóa Thân, đây là diệu thể của lý trí bất nhị, vì hóa độ chúng sinh nên ứng hiện ra nhiều hình tướng, thân phận.  Có 2 loại: khi giáo hóa hàng Bồ Tát đăng địa thì dùng Thắng Ứng Thân (Thắng Ứng Thân đồng vớí Tha Thọ Dụng Báo Thân); khi giáo hóa cho phàm phu, nhị thừa, tam hiền thì dùng liệt ứng thân, như đức Bồn Sư đản sinh ở Ấn Độ.

 

NGHĨA ĐẶC BIỆT VỀ CÕI TỊNH ĐỘ CỦA ĐỨC A DI ĐÀ

 

Đức Phật A Di Đà trong khi còn tu nhân tức là Pháp Tạng Tỳ Kheo.  Ngài đã từng trải qua nhiều kiếp quán sát vô lượng cõi Tịnh Độ, rồi phát nguyện và tu thành Di Đà Tịnh Độ, làm phương tiện đặc thù, khắp độ hết thảy chúng sinh.  Căn bản nguyện của các vị Đại Bồ Tát trong khi tu nhân tuy giống nhau, nhưng độ sanh như thế nào thì mỗi vị có một phương tiện khác nhau.  Đức A Di đà thì chuyên thị hiện vô biên công đức trang nghiêm của Tịnh Độ, dẫn phát lòng thâm tín, ngưỡng mộ của chúng sinh để họ niệm danh hiệu Ngài, được vào chánh định tụ (ai được vào chánh định tụ người ấy nhất định chứng ngộ) sẽ không còn sinh tử luân hồi nữa.

 

Ở đời này có không ít người không biết Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Giáo chủ của thế giới Sa Bà này, nhưng danh hiệu A Di Đà thì cơ hồ như không một ai không biết.  Do đó, chúng ta thấy rằng từ vô số kiếp về trước đức Phật A Di Đà đã từng có duyên khá sâu đậm với tất cả chúng sinh.

 

Do sự phát nguyện của đức A Di Đà trong lúc tu nhân mà thành tựu được thắng quả này (Cực Lạc Tịnh Độ) và mười phương chư Phật cũng dùng Tịnh Độ của Đức A Di Đà làm phương tiện thắng diệu để nhiếp thọ chúng sanh, khuyến hóa dẫn dắt họ cầu vãng sanh về nơi “Bất Thoái”.  Vì thế, phương tiện này là phương tiện căn bản, hễ thâm tín và xưng niệm, tức nhiên ai cũng được về Cực Lạc và quyết định sẽ thành Phật không còn nghi ngờ gì nữa!

 

Những hành giả chuyên tu Thiền Tông cần phải thấu suốt bản tâm, khai ngộ thật tướng, định và huệ đều viên thành mới gọi là chứng ngộ, nên Thiền thuộc nan-hành-đạo (đường khó đi, đạo khó thực hành).  Ngược lại, Tịnh độ thuộc dị hành đạo.  Bởi thế, Vĩnh Minh  Diên Thọ Đại Sư nói:

 

“Không tu thiền nhưng tu Tịnh Độ

Muôn người tu muôn người được về

Đã thấy được đức A Di Đà

Còn lo gì về việc khai ngộ?”

 

Suy ra, pháp môn Tịnh Độ vừa sâu rộng vừa viên dung, bao gồm vô lượng pháp và ở vào địa vị cao nhất trong Phật giáo.  Do đó, chúng ta không thể không tin tưởng thực hành pháp môn này: tùy thuận đức Phật A Di Đà, phát nguyện vãng sanh, lợi mình lợi người, vượt thoát ác thế, đi thẳng về Cực Lạc, không còn thoái chuyển; thế rồi hành Bồ Tát Đạo, hóa độ tất cả chúng sinh, khiến hết thảy lìa khổ, được vui cứu cánh.  Đây là kết quả cao quý nhất của người tu theo pháp môn Tịnh Độ của Đức A Di Đà, há chúng ta lại có thể xem thường được ư?

 

Trên đây đã trình bày xong phần I.  Dưới đây là phần II.

 

THẮNG NGHĨA CỦA KINH VÔ LƯỢNG THỌ ĐỐI VỚI CÁC KINH LUẬN KHÁC

 

Trong phần này sẽ chia ra 6 phần nhỏ để thuyết minh:

 

A – Nhân quả đầy đủ:

 

Hầu khắp các kinh luận Đại thừa đều ít nhiều có nói đến pháp môn Di Đà Tịnh Độ.  Nhưng chuyên miêu thuật về cảnh Tịnh Độ thì chỉ có 3 bộ Kinh và một bộ luận thôi.

 

Kinh Vô Lượng Thọ nói về những hạnh nguyện của Pháp Tạng Tỳ Kheo trong khi còn là Bồ Tát, nhờ vào nhân địa tu hành đặc thù đó, nên mới thành tựu cõi Tịnh Độ cực kỳ trang nghiêm khi Ngài thành Chánh Giác.  Sau đó, Ngài lại dùng cái diệu quả ấy để nhiếp hóa mười phương chúng sinh, nếu tất cả chúng sinh chịu y vào phương pháp đó mà tu hành thì nhất định cũng được kết quả như Ngài.  Đây là tự mình tu giáo hóa người khác, đầy đủ cả hai tần Nhân Quả.  Đó là điểm đặc điểm thứ nhất của kinh Vô Lượng Thọ

 

B – Tín giải đầy đủ:

 

“Lòng tin là bước đầu vào Đạo, là mẹ sinh ra các công đức và nuôi lớn hết thảy căn lành.”  Hiểu và hiểu biết đúng đắn là điều kiện tối yếu trên đường tu hành; có tin tưởng mới chịu khó tìm hiểu, học hỏi và nhờ thế mới có được sự hiểu biết chân chính.

 

Kinh Vô Lượng Thọ thuyết minh Ngài Pháp Tạng trong nhân địa nhờ tín tâm thâm thiết và hiểu biết thù thắng mà tạo thành Di đà Tịnh Độ.  Trong những kinh luận khác khi nói về  Tịnh Độ phần nhiều bàn về sự khó khăn của vấn đề sanh tín tâm để khuyên hành giả sanh lòng tin.  Kinh này cũng tha thiết khuyên tin, nhưng nhứt là khởi phát sự hiểu biết thù thắng về PHÁP KHÔNG VÔ NGÃ, DUY TÂM NHU HUYỂN, khiến cho có thể hiểu rõ Phật trí một cách thấu suốt không còn nhầm lẫn.  Nhờ vậy mà cả TÍN lẫn GIẢI đều đầy đủ.  Đó là đặc điểm thứ hai của kinh Vô Lượng Thọ.

 

C – Nguyện Hạnh đầy đủ:

 

Trong Kinh A Di Đà tuy nói rằng cần phải có nhiều thiện căn phước đức nhân duyên mới sanh về Tịnh Độ, nhưng không nói rõ nên tu các thứ thiện căn phước đức ấy như thế nào.  Trái lại, trong kinh Vô Lượng Thọ không những thuyết minh Đức A Di Đà tại nhân địa phát nguyện tu hành như thế nào, còn nói rõ người y vào tịnh quả của Ngài cầu vãng sanh nên phát nguyện tu hành ra sao nữa.  Như thế nguyện và hạnh cả hai đều đủ.  Đó là đặc điểm thứ ba của kinh Vô Lượng Thọ.

 

D – Khuyến giới đầy đủ

 

Khuyến: Nêu lên những điều thiện làm cho hành giả vui thích, mến mộ.  Giới: chỉ xích những điều ác khiến hành giả biết mà xa lánh.  Trong Kinh Vô Lượng Thọ cực lực nói lên những sự khổ não của cõi Sa Bà, khiến mọi người lo sợ, rùng rợn mà sanh lòng nhàm chán.  Hơn nữa, lại hết lời ca ngợi sự trang nghiêm, diệu lạc của cõi Tịnh Độ để khởi phát niềm tín nguyện của chúng sinh.  Dặn dò, khích lệ, lòng thương xót sinh linh vô cùng độc đáo, thiết tha.  Đó là đặc điểm thứ tư của kinh Vô Lượng Thọ.

 

E – Lý sự đầy đủ:

 

Lý: chân như, như huyễn, v.v… các lý.  Sự: sự tướng, như trong cõi Tịnh Độ, đức A Di Đà có Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, đất lát bằng hoàng kim, âm nhạc du dương… đều là các tướng thắng diệu có thể nêu ra.  Các kinh khác khi nói về Tịnh Độ thường thường hiển sự ẩn lý, kinh này lý sự đều viên minh.  Đó là đặc điểm thứ năm của kinh Vô Lượng Thọ.

 

F – Thuyết chứng đầy đủ:

 

Tây phương Tịnh Độ có vô lượng bất khả tư nghị công đức trang nghiêm, tuy mười phương chư Phật cũng xưng tán điều đó, nhưng nếu chưa được trực tiếp nhìn thấy thì cũng khó lòng làm người ta tin.  Nay Đức Phật nói kinh Vô Lượng Thọ xong, liền bảo Ngài A Nan đảnh lễ Đức A Di Đà của Tây Phương Tịnh Độ, đồng thời làm cho tướng trang nghiêm của cảnh Cực Lạc ấy hiện ra, khiến tất cả đại chúng torng hội nghe Kinh đều được trực tiếp nhìn thấy.  Do đó, không phải chỉ có thuyết minh mà còn có cả hiện chứng.  Đây là đặc điểm thứ sáu của kinh Vô Lượng Thọ.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *