TỰ TỨ – KẾT NỒI TRUYỀN THÔNGTÂM LINH Theo truyền thốngsinh hoạttu học của chư Tăng Ni từ thời Đức Phật còn tại thế, cứ đến ngày kết thúc một mùa an cư thì Đức Thế Tôn cùng chư Tăng Ni đều làm lễ Tự tứ, nhằm tạo điều kiện cho chư Tăng Ni phát lồ, thanh tịnh thân tâm. Trên hết, lễ Tự tứ còn có mục đích nữa là Đức Thế Tônchứng minh và công nhận cho mỗi hành giả đã thành tựu sự tu tập với nhiệt tâm tinh cần trong cuộc hành trì thăng chứng nội tâm hướng đến giải thoáttối hậu qua ba tháng cấm túc. Chính với ý nghĩa đó mà lễ Tự tứ, một mặt, vẫn là một dấu ấn lớn dành cho chư Tăng Ni trong giới thiền môn, mặt khác, ngày nay đã thực sự mang một giá trịtruyền thôngtâm linh trên bình diện cộng đồngxã hội trong việc xây dựngnếp sốngđạo đức hướng thiện và hạnh phúc cho con người. Bởi vì, suy cho cùng thì giá trị của lễ Tự tứ là sự thể hiện việc quyết địnhnỗ lựchoàn thiện nhân cách, thăng chứng tâm linh và khai mở trí tuệ đối với mọi cá nhâncon người trong cuộc sống vốn biến động không ngừng. Thực tế, ngay từ thời Phật còn tại thế, lễ Tự tứ đã được Đức Thế Tôn và các đệ tửTrưởng lão tổ chức đơn giản nhưng hết sứctrang nghiêm, trong một môi trường thanh tịnh, ban đầu là ngay giữa khu rừng, sau đó là tại các tinh xá. Khởi nguyên của ngày này là chúng Tăngan cư tự thân nghĩ rằng: “Tuy mình đã gắng tu như thế, nhưng không chắc đã tránh hết lỗi lầm, nên khi tròn ba tháng (vào Rằm tháng Bảy) cùng nhau tập trung lại, cầu mong những vị có giới đứcthanh tịnh hơn mình chỉ lỗi cho. Nếu mình tự thấy mắc phải lỗi lầm thì phải phát lồ sám hối”. Đây chính là cốt lõi của ngày lễ Tự tứ. Mục đích của lễ này là để mỗi vị hành giảan cư tự nêu lên các tội mình đã phạm trong ba việc thấy, nghe, nghi đối trước các vị đồng phạm hạnh khác mà sám hối. Nhờ sự sám hối này mà thân tâmthanh tịnh, tự sinh vui mừng, nên gọi là Tự tứ. Tự tứ là dịch nghĩa từ chữ Phạn (Paravana theo Pali hay Pravarana theo Sanskrit), dịch âm là Bát-lợi-bà- thích-noa, Bát-hòa-la, có khi còn dịch là Mãn túc, Hỷ duyệt, Tùy ý sự. Vì lễ Tự tứ được cử hành giữa chư Tăng Ni nên ngày này được mệnh danh là Tăng Tự tứ nhật – ngày chư TăngTự tứ; cũng từ giờ phút này chư Tăngthụ giớian cư được công nhận thêm một tuổi đạo nên còn gọi là ngày Tăng thụ tuế nhật. Theo ghi nhận trong Thiên Tự tứtông yếu thuộc Tứ phần Luật san phồn bổ khuyếthành sự sao, quyển thượng, phần 4 thì Phật chế hạ an cư 90 ngày, khiến Tăng chúng nhóm họp một chỗ hạ thủcông phu, hành trìgiới hạnh, làm cho đạo hạnhtrong sáng. Tuy nhiên, do phần lớn không nhận thức được việc làm của mình, không tự thấy lỗi lầm của mình đã phạm, nên phải nhờ đại chúngtừ bichỉ bảo. Do đó, vào ngày Tự tứ, mọi người phải hết lòng bày tỏ tội lỗi của mình, cầu thỉnhđại chúng dạy răn, bấy giờ mới hiển bày được những lỗi bên trong, sai lầm bên ngoài. Nhờ sự phát lồsám hối này mà thanh tịnh. Điểm đáng nói là Phật không cho phépTăng chúngthực hànhphi phápbiệt Tự tứ, phi pháphòa hợpTự tứ, hữu phápbiệt Tự tứ, chỉ cho phépthực hànhhữu pháphòa hợpTự tứ đúng như tinh thần của Kiền độTự tứ trong Luật Thập tụng 23 đã ghi. Rõ ràng, theo Luật định thì mục đích của lễ Tự tứ là xây dựngđời sống Tăng-già hòa hợpthanh tịnh, trên cơ sở tự thân tu tậpphạm hạnhtinh khiết. Quan điểm của Phật giáo thường được ghi trong các bản kinh là có hai hạng người đáng quý nhất ở đời. Thứ nhất là hạng người suốt đời không bao giờ tạo ra tội lỗi và thứ hai là hạng người có tạo ra tội lỗi mà thành tâmsám hối, từ bỏ. Do đó, bất cứ người đệ tử Phật nào cũng phải quán triệttinh thần này; nhất là các vị xuất gia, sống đời sốngphạm hạnh, không gia đình, hướng tâm đến mục đích giải thoáttối hậu. Hẳn nhiên, không phải chỉ với ba tháng an cư là hành giả đã thành tựuphạm hạnh đạt tới sự giải thoát, mà sự hành trì đòi hỏi hành giả phải trải nghiệm, hạ thủcông phu cả quá trình qua một thời giannhất định với một không gian, môi trường tu tậpthích ứng. Nhưng công bằng mà nói, khoảng thời gian ba tháng an cư hàng năm là thời gian mang tính chấtquyết định, mang dấu ấn lớn trong việc dốc lòng, nhiệt tâm tinh cần, chứng đạt giác ngộ của một hành giả. Tại đây, mọi tâm lý mang tính chất “cái này là tôi, là của tôi, tự ngã của tôi” có thể tự đổ rụng, thay vào đó là thái độ sống vô ngã, sẵn sàng lắng nghe các đối tượng và tiếp nhận – sàng lọc các các thông tin để hành xử đúng với mọi người, mọi điều với sự soi rọi của chánh kiến. Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnhhòa hợp, do đó mọi hành giảan cưtham dựbuổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác. Lòng tin vào tự thân có giá trịquyết định cho sự hoàn thiện nhân cách, thăng chứng tâm linh, thành tựugiới đức, tâm đức, tuệ đức sau ba tháng nỗ lựctinh tấntu hành. Và ngay giờ phút thiêng liêng của lễ Tự tứ, hành giả tin mình đã chuyển hóa nội tâm, đã thành tựu, đã chứng đạt. Điều quan trọng hơn nữa, do tự mình phát tâm muốn sám hối những điều sai phạm mà chính bản thân không thấy, không biết, không nghe nên khởi tâm tin các vị đồng phạm hạnh khác một cách tuyệt đối trong tinh thầntôn trọng, hòa hợp, vị tha, bao dungđộ lượng, công tâm và bình đẳng. Cho nên, hành giảan cư khởi niềm tin vào người đứng ra cử tội có đủ năm phẩm tính đúng như Luật định:
Trong khi đó người nhận Tự tứ, người mà mình cầu thỉnh nhờ họ chỉ giáo cũng phải hội đủ năm phẩm tính:
Và như thế tính chấtbình đẳnghòa hợpthanh tịnh trong lễ Tự tứ được xem nhưđiều kiện cần và đủ để buổi lễ được thành tựuviên mãn. Do đó, Luật cũng cũng đề cập đến trường hợp một người khi muốn cử tội người khác hay ngăn cản người khác Tự tứ thì trước hết ba nghiệpthân khẩu ý của người đó phải thanh tịnhhoàn toàn. Nếu một trong ba nghiệpthân khẩu ý không thanh tịnh thì lời cử tội ấy không có giá trị. Trong tiến trình cử tội người khác về việc thấy, nghe, nghi phải giải trình một cách rõ ràng, có chứng cứ xác thực; ngược lại trong khi trình bày thiếu sự hợp lý, bị chất vấn mà giải đáp không thỏa đáng thì bấy giờ luật sư có quyền phủ quyết và kết tội trở lại vị đó với một tội danh thấp hơn một bậc so với một tội mà người ấy đã tố cáo người khác. Thí dụ có một vị tố cáo một người nào đó phạm tộităng tàn mà giải đáp không thỏa đáng thì Luật sư kết tội vị tố cáo phạm Thâu-lan-giá… Ngoài ra, trong tiến trình Tự tứ có vị Tỳ-kheo nào từng phạm tội mà đại chúng không biết, không có ai cử tội, xem như đã thông qua. Tuy vậy, sau khi Tự tứ, nếu ai cố tình cử tội lại thì phạm luật. Rõ ràng, nội dung lễ Tự tứ mà chư Tăng Ni thực hiện là nhằm giáo dục, giáo hóa hơn là chỉ trích hay trừng phạt. Vấn đề tự ý thức, tự giáchành trì và sống đúng luật nghi không chỉ tự tôn trọng phẩm hạnh của cá nhân mà đảm bảo tính hòa hợpthanh tịnh của đoàn thể Tăng-già nữa. Từ nội dung ý nghĩa của việc thực thi lễ Tự tứ nói trên, giá trịtruyền thôngtâm linh trên bình diện xã hội của lễ này sẽ có tác động lớn vào việc thiết lậpđời sốngđạo đứchạnh phúc của con người. Thời gianan cư là thời gianchư Tăng tập trung tu học, thành tựuphạm hạnh, thăng chứng đạo quả. Cũng chính thời gian này mà giới tại gia được nương tựa chư Tăngtu hành trong một môi trường tu tậplý tưởng nhất, có thiện duyên để hành trìnếp sốngđạo đức, tu dưỡngbản thân, bình an nội tại. Ảnh hưởng của lễ Tự tứ cũng nhằm giáo hóathái độ sống tự ý thứchoàn thiện nhân cách của giới cư sĩ. Theo dòng tâm lý đời thường, con người luôn tìm cách che giấu lỗi lầm, sợ người khác biết thì xấu hổ, vì thế phải tìm cách né tránh khi lỗi lầm của mình bị người khác nêu ra; hoặc trong trường hợp bị truy hỏi, không thể chối bỏ được mới thừa nhận; ngay cả khi tự mình nhìn ra lỗi lầm, tự phát tâmsám hối cũng chỉ âm thầm khấn nguyện trước Tam bảo. Phật dạy đây là một thái độ sống thường tình của con người, do bị thói quen thích nhìn lỗi người khác chứ không biết tự nhìn lỗi của mình. Quan điểm sống như vậy sẽ dẫn con người đến sự cố chấp, bảo thủ, chủ quan, không bao dung và độ lượng trong lúc hành xử với các mối quan hệ giữa người và người. Có khi cách sống này còn dẫn đến sự tha hóa đạo đức trong việc xây dựng cái “tự ngã” vốn không thật có trong cuộc đời này. Nhà Phật cho đó là chướng duyên lớn trong tiến trình tu tập, thực nghiệm tâm linh mà mỗi cá nhân, gia đìnhcần phảitừ bỏ để có thể sẻ chia, tự nhìn lại mình trong việc kết nối yêu thương một cách trọn vẹn. Trái vớithái độ sống trên, Phật giáo, thông qua lễ Tự tứ, có khả năng kết nối các giá trịtruyền thôngtâm linh, đạo đứccon người chung sống trong một môi trường, một cộng đồnglý tưởng. Sự thậtcon người tự nhìn nhận về lỗi lầm của chính mình là rất khó, ngay cả trước người thân như cha mẹ anh em, bà conquyến thuộc. Thế nhưng đối với người học Phật thì cái tâm lý tự giáp mặt cái tôi của chính mình sẽ tự phải tháo bỏ, thay vào đó là thái độ mong cầu được sửa chữasai lầm, được trở nên hoàn thiện, thăng hoa. Bằng chứng các vị xuất gia, hành giảan cư là những vị thầy của quýPhật tử đã thực thi. Từ điểm nhìn này, bất cứ ai cũng tự thành thật, tự hoàn thiện nhân cách, sẽ góp phần đem lại hạnh phúc và an lạc cho mọi người. Cho nên kinh Tăng Chi dạy “Nơi nào có chư Tăngtu tậpthanh tịnh thì trú xứ đó được thanh tịnh, hội chúngPhật tử nương theo đó mà tu tập, nhất định được an lạc, thanh tịnh”. Tự tứ cũng là ngày chư Tăng được tăng thêm tuổi hạ, ngày đánh dấu sự thành tựu trong việc tu tập, cũng là ngày mọi người hướng tâm báo hiếucha mẹ, người còn kẻ mất, ngày xá tội vong nhân, tha thứ cho những lỗi lầm, chúc mừng vì những niềm vui đạt được; vì vậy ngày này chư Phật mười phươngba đời đều hoan hỷ. Thế nên, ngày Tự tứ còn gọi là ngày Phật hoan hỷ. Cũng nhân ngày Phật hoan hỷ, chư Tăng tăng thêm tuổi hạ, đồng nghĩa tăng thêm giới đức, tâm đức, tuệ đức, sẽ góp phần quyết định thêm giá trịtruyền thôngtâm linhcầu nguyện cho quốc thái dân an, chúng sinh dị độ, người còn kẻ mất đều ân triêm công đức. Vậy là không có lý do gì mà trong mỗi chúng ta lại không hân hoan, không hoan hỷ để sống, để tu, để đóng góp cho đời khi tự mình biết rằng “Chúng sanh là một vị Phật sẽ thành”. (Văn HóaPhật Giáo 183) |